dimanche 16 août 2015

ĐỘC KẾ "NGAO SÒ ĐÁNH NHAU NGƯ ÔNG HƯỞNG LỢI CỦA TÀU KHỰA






VỚI TỰ CÁCH ĐỐI LẬP, TẠI SAO CẦN ĐỐI THOẠI-ĐIỀU ĐÌNH VỚI CSVN TRONG DANH DỰ HẦU CÓ NGAY TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TOÀN VẸN LÃNH THỔ?


LÒNG NGƯỜI CG YÊU TỔ QUỐC, YÊU DÂN TỘC:

Lời cầu nguyện chung cùng anh chị em CG:
Thân lạy Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu, con hèn nhờ Trái Tim Cực Sạch Đức Maria mà cầu xin cùng Chúa ban cho con nhiều can đảm để thực thi và rao truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu và Sứ Điệp của Đức Nữ Đồng Trinh, Mẹ buồn rầu chan hòa nước mắt phán bảo ở Medjigorje phải quảng báo Sứ Điệp của Mẹ đến mọi người, mặc cho người đời bán bổ, phản đối...
Đọc Phúc Âm Chúa là phải thi hành triệt để Lời Chúa hơn làm bất cứ gì khác:
Ta ban cho chúng con một giới răn mới là chúng con hãy thương yêu nhau như Ta thương yêu chúng con.”… “Nếu chúng con chỉ thương người thân của chúng con và những tốt với chúng con, thì kẻ tội lỗi cũng làm như vậy…. các con phải thương yêu và tha thứ cho kẻ thù nghịch với chúng con…” “….Xin Cha tha nợ cho chúng con, cũng như chúng con tha cho kẻ có nợ với chúng con…”.
Trong TÁM MỐI PHÚC THẬT, Chúa dạy với mọi giá phải thi hành để dược làm con Thiên Chúa:
Phúc cho kẻ biết làm cho người hòa thuận, vì họ được gọi là con của Thiên Chúa
Ôi, giữ đạo công giáo là phải như vậy, có khó không? Với ơn Chúa thì chẵng có gì khó hết cả. Xin Chúa cho con luôn luôn có thừa can đảm, không lùi bước trước bình phẩm, chỉ trích, phê phán, chế nhạo, bôi nhọ, cáo gian của thế gian để thi hành Lời Chúa. Không thất vọng, lùi bước, sợ sệt trước những phản đối tầm thường, xỉ vả hay lên án của người đời.
Làm cho người thuận với nhau nghĩa là làm sao? Giữa những người người VN khác nhau lý tưởng sống, đạo đức, thể chế sống…..


Chiến tranh hỏa lực đã qua 33 năm, nhưng chiến tranh võ mồm, hận thù vẩn truyền kiếp… và hầu như còn tệ hại hơn, thù qua thù lại dai dẵng không bao giờ dứt, lại thêm cái tên Tàu phù cho tay sai nằm vùng chia rẻ dân tộc VN, vun đáp hận thù dân độc để xâm chiếm lãnh thổ lãnh hải Biển Đông nước ta….. Nếu không có Tàu Phù phá hoại chia rẻ dân tộc thì nước ta đã chẵng khác gì LX và các nước Đông Âu….
 

ĐỘC KẾ “NGAO SÒ ĐÁNH NHAU NGƯ ÔNG HƯỠNG LỢI” CỦA TRUNG CỘNG TRONG SUỐT 40 NĂM VÀ CÒN NỮA:

Khi ra đến hải ngoại thì lo ổn định công việc làm ăn, lo bảo lảnh thân nhân sum họp là mục đích tiên khởi của NVTNHN. CSVN cũng không ngờ rằng số người Việt di tàn đông đúc khắp thế giới nhất là ở Mỹ đã tạo nên một lực lượng chống đối kinh hồn khi CSVN mới bắt tay với thế giới tự do.
Từ những năm đầu tiên, TC đã cho tính báo nằm vùng trong số NVHN, xúi dục, thôi thúc, khiêu khích NVHN chỉ biế chống cộng cực đoan với ảo vọng chiếm lại đất nước từ tay CSVN. Chúng làm cho NVHN trúng phải kế ly gián của TC, trúng kế “ngao sò đánh nhau ngư ông hưỡng lợi”.

Đến nay sự thật đã hiễn nhiên, nhưng CĐ NVHN vẩn mơ ngủ trước sự thống trị của đoàn quân tình báo TC. Tổ chức của NVHN, các đảng phái vẩn ù lì chia rẻ, ngồi chờ sung rụng, lập chính phủ ảo vọng tiếp tục gây chia rẻ và tin tưởng trước tin đồn của bọn TC nằm vùng rằng CSVN sắp rớt để sẵn sàng chạy về nước chia nhau, dành nhau cái lộc đỉnh chung mà là vua làm thủ tướng tổng thống mà quên điều thực tế là thù chung là Trung quốc đang thôn tính toàn bộ biển đông với 2 quần đảo với 84.000 mầu tây mà CSVN tạm nhượn cho TC, chiếm hữu kho dầu vô tận trên biển Đông của VN, bao vây mặt tiền với âm mưu thôn tính VN ngày gần đây.

Vì địa thế quan trong của VN, TC có 2 mục đích thưc hiện cuộc xâm lăng VN để làm giàu cho chúng đồng thời làm bàn đạp thôn tính Đông Nam Á và thế giới với tham vọng lên ngôi bá chủ.

Từ năm 1991, cách đây 17 năm chúng tôi đã tiên đoan tất cả âm mứu của TC, nên đã lên tiến kêu gọi toàn thể các lãnh tụ Liên minh, Tổ chức, Mặt trận, Đảng phái, Phong trào, Hội đoàn Chính trị, Xã hội Tôn giáo VNCH tại Houston về “Sách lượt chấn hưng VN băng hoại từ tay CSVN”. Tất cả đề đồng thuận theo chính sách của Nguyễn Trãi “Lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn.”  Hoàn cảnh bắt buộc chúng ta quyết tâm tiền phong xữ dụng một Chính Trị Đạo Đức: Không dùng bạo lực, mà có muốn dùng thì cũng đã lỗi thời và cũng chẵng có cơ mà dùng.

Nếu chúng ta dùng thuyết phục mà được đối phương quan tâm và chấp nhận thì đó là việc vô vùng khôn ngoan, một thắng lợi lớn lao. Chúng ta cần thuyết phục CSVN để cứu nước và cứu mình. CS chỉ biết dùng bạo lực với nhân dân và khiếp sợ với Trung Cộng. Tôi đã thuyết phục CSVN từ năm 1991, tuy lúc đó CSVN đã tỏ ý chấp nhận, nhưng chính 2 ông Hoàng Bíahc Sơn và Nguyễn Ngọc Trân trung ương đảng, đặc trách Việt kiều và ngoại giao đã nói rằng “Phải có NVHN cần tỏ thiện chí trước, cần đi trước.” là vô lý, vì CSVN là phe thắng. Ngày nay chính CSVN chấp nhận đàm thoại, họ đã quay lại đòi thương thuyết, đàm phán trong danh dự, trong công bình và tôn trọng lẫn nhau với NVHN. Đó là một sự thành công lớn lao bất ngờ của chúng ta, đó là việc vô cùng quí báu.”

Nhưng bao nhiêu năm sau CSVN đưa ra NQ36 Hòa hợp hòa giải thì lại theo một con đường độc tài đảng trị. Họ đã sai nhầm và ảo tưởng quá xa. Vì CĐ/NVHN đâu còn nằm dưới quyền độc tài của họ, và CĐ chúng tôi đang sống sung túc dưới những thể chế dân chủ nhân quyền của thế giới, mà CSVN muốn kéo CĐ/NVHN trở về dưới thể chế độc đảng CS độc tài tham nhũng của họ làm sao chứ ?  

Trong hoàn cảnh trên, làm sao chúng ta có thể hèn yếu, thiếu tài thiếu đức, thiếu cứ liệu, thiếu lý luận, thiếu hùng biện để nói chuyện với CSVN để thuyết phục họ, thì chúng ta mới sợ thua, sợ bị chinh phục thành nô lệ mà gọi đàm phám với CSVN là đầu hành là tự sát là tận diệt hết mọi hành động chống CSVN ở hải ngoại.

Nhất định chúng ta có tất cả, đầy đủ tất cả, chẵng những lý luận hùng hồn của chúng ta thắng cả CSVN mà chúng ta còn phải thắng cả Trung Cộng để dành lại lãnh thổ chúng đã cướp của chúng ta. Bằng cớ yếu kém của CSVN là chính họ đã bị TC thuyết phục mà phải nhượng đất đai quần đảo và Biển Đông. Có thể nói là đã chậm trể, nhưng dầu trể còn hơn không, vì luật pháp quốc tế từ sau thế chiến thứ I cấm ngặt dùng võ lục uy hiếp tranh dành đất đai dã có chủ từ nhiều trăm nay về trước.

CẦN ĐỐI THOẠI VỚI CSVN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ TRANH CHẤP TRONG HÒA BÌNH:

Kể từ 1991 đến nay, CSVN tưởng rằng NVHN có thiện chí nói chuyện trong danh dự với nhà nước CSVN, nhưng không, tất cả chỉ là biểu tình phá hoại công việc ngoại giao của CS, bêu rêu, mắng chưởi thóa mạ, điếm nhục bằng mọi hình thức. Và NVHN khi nghe CSVN nói “khúc ruột ngàn dặm” thì cũng tưỡng rằng CSVN đã biết tỉnh ngộ, biế điều đối với CĐNVHN nói riêng và với phe an hem thua trận nói chung. Nhưng không trái lại. Chính CSVN đã làm cho ‘chiến tranh bạo võ mồm’ ngày càng gia tăng’. Chúng ta không thể chủ quan nghĩ rằng vì nhà nước VN yếu rồi, CSVN sắp bị nhân dân đập rớt xuống rồi, nên mới ra NQ 36 hầu gọi NVHN hòa giải với chính quyền khi họ là hoàn toàn bị sa vào độc kế cúa của Trung Cộng. Phải thực tế nhìn nhận “biết người biết mình, trăm trận trăm thắng” nhà nước CSVN hiện rất hùng mạnh kgi họ chấp nhận dựa vào Tàu đến Mỹ cũng nễ nang.

NVHN  càng đánh phá CSVB, càng ngăn chặn CS bắt tay đàm thoại với Thế giới tự do, với, Úc với Pháp và đặc biết với Mỹ, CSVN càng trã đủa trên đầu người Việt rong nước. VNHN cang khuy16n khia1ch CGVN đứng lên lất đổ chính quyến CSVN, dầu là một việc GH CGVN không bao giờ làm, và củng không có một sức lực nào làm dược, thì CSVN càng đánh phá CGVN. NVHncanh2 ngăn chăn nhà nước SVN giao thiệp với thế giới tự do CSVN càng ngã theo Trung Cộng, càng quị luy TC. Như thế khác nào NVHN khuyến khích CSVN dầy ải GHCG VN, khác nào NVHN thúc giục CSVN theo Tàu, nhừng đất nhường đảo cho TC. Thành quả đấu tranh phản tùng của NVHN 33 năm nay đã đem lại kết quả gì nếu không là mất nước, nếu không là GHCG VN bị hành hạ dủ dều, ĐTGM Ngô Qaung Kiệt bị bôi nhọ trước toàn dân. Hảy suy nghĩ lại đi. Những ai đả lên tiếng chống cọng bao năm nay, rồi rốt cuộc họ có nhữn thắng lợi gì hay chỉ làm hại thêm cho tổ quốc cho lãnh thổ lãnh hải VN, làm hại cho GHCG VN, cho Phật Giáo, Tin Lành VN.     

NVQGHN càng ra sức tố, chưởi bới CSVN, càng khiến cho CS trút tất cả mối tức giận lên đầu lên cổ nhân dân. Càng khiến cho CSVN bơ vơ chạy theo Trung Cộng để nghe những lời mất ngọt giết người để rồi dần dần xâm lăng dất nước ta.


TRANH ĐẤU THUYẾT PHỤC TRONG DANH DỰ VỚI CSVN:

NVQGHN phải là người anh dũng thì mới đối thoại thuyết phục với CSVN được? Nếu chúng ta đần độn không biết đấu lý vì quyền lợi dân tộc tức nhiên chúng ta bỏ cuộc, bỏ một dịp may mà chính CSVN mời gọi chúng ta. Vì dây là thiện chí cao siêu, dây là hành động của người anh hùng khôn ngoan, tài giỏi, đức độ; đây là người anh dũng đúng như lời Tô Đông Pha: “Kẻ đại dũng trong thiên hạ….. thình lình gặp những chuyện phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ ở chổ hoài bảo của họ rất lớn và chổ lấp chí cảu họ rất xa vậy.” Vì chỉ có những người anh hùng theo cái dũng cảu thánh nhân mới cứu dược nước trong lúc nầy. Vì chỉ có thiện chí cao siêu mới bẻ gảy được sự xâm lăng của kẻ ngông cuồng TC. Mới cứu dược đất nước khỏi ách thống trị của quân tham tàn, mới đánh tan được kẻ thù Bắc Kinh bành trướng ngàn đời chỉ lăm le thâu đoạt giang sơn Việt Nam chúng ta. Trước bao nhiêu đó, chúng ta thức tỉnh, tiếp tay với CSVN, với QĐNDVN xua đuổi Tàu chệt phải rút lui khỏi ranh giới nước ta.  

LÀM CHO NGƯỜI HÒA THUẬN ĐỂ CỨU NƯỚC CỨU DÂN LÀ CHÂN LÝ KITÔ GIÁO:

TC âm mưu gọi VN là anh em, môi hở răng lạnh để ru ngủ CSVN, đồng thời  chúng cho tay sai tình báo xâm nhập trắng trợn vào CĐ NVHN để thôi thúc chúng ta mất thì giờ ngoắc miệng chống CSVN suốt 33 năm liền mà quên đi kẻ thù chung, quên đi là chúng ta cần tìm lời hơn lẻ thiệt thuyết phục CSVN trong tinh thần anh em, máu chảy ruột mền. CSVN tuy đang nắm quyền cai trị đất nước, nhưng rõ ràng họ đã bất lực trong việc chống xâm lăng. NVHN tuy là người thất bại phải bỏ nước ra đi, nhưng lại có một tinh thần đấu tranh chống xâm lăng kiên cường. Nhưng bọn tình báo TC đã làm tê liệt lòng chống xâm lăng, coi nhẹ kẻ thù chung TC mà chỉ ngày đêm lo chống CSVN.
CSVN đã thống nhất đất nước, dã cầm quyền cai trị đất nước trên 63 năm nay, vậy mà CSVN nở để TC cướp mất Biển Đông với 2 quần đảo đề bao vậy cửa ngỏ, mặt tiền của VN cùng chiếm khota2ng vô tận trên Biển Đông trong âm mư thôn tính đất nước chúng ta. TC cũng đã cướp thác Bãn Giốc, Ải Nam quan cùng trên 84.000 mẩu tây đất Việt Bắc. Chúng ta phải đấu tranh đòi lại.  


 ĐƯỜNG LỐI TRỰC DIỆN ĐỐI THOẠI TRONG DANH DỰ VỚI CHÍNH QUYỀN CSVN

Trên các diễn đàn NVHN, có người nói rằng các anh dành đất nước mà làm gì? Phải chăng ý họ muốn nói chống xăm lăng, dành đất nước mà có cai trị được đất nước hay không? Hay chỉ làm lợi cho CSVN. Hay những người đó chỉ muốn TC mau mau xăm lăng đất nước VN chúng ta, và thôi thúc NVHn hay bọ qua chuyện nước nhà bị xâm lăng. Đ1o chính là tay sai Trung cộng nằm vùng trong lòng các CĐ NCHN, vậy mà các DĐ NV,  vậy mà NVHN vẩn nuông chiều ủng hộ, thân ái bác bác cháu cháu với quân xâm lăng nằm vùng từ cả mấy chục năm nay.

Trên DĐ còn có nhiều người nói rằng muốn chống ngoại xâm phải lật đổ chính quyền CSVN trước đã. Dầu NCQGHN có một lực lượng quân sự hùng mạnh trong tay có thể đánh nhau với CSVN để chiếm lại Miền Nam, chúng ta cũng không thể thi hành ngay vào giao đoạn nguy hiểm này được, vì TC chỉ chờ có thể để lấy cớ giúp CSVN mà chiếm nay toàn vẹn đết nước VN. Dầu dân chúng có hùng mạnh, có tự do dân chủ, tự do biểu tình chống đối nhà nước CSVN trong lúc nầy thì củng rất nguy hiểm, TC sẽ nhân cớ hội CSVN phải lo đấu trí với nhân dân mà phải nhịn TC để cho chúng xâm lăng đất nước, đem quân dẹp loạn cho CSVN mà thôn tính nước nhà.
Có nhiều người nói rằng, muốn làm hòa, hay đúng nghĩ là muốn hòa hợp hòa gải với NVHN thì CSVN phải hòa gải với người trong nước trước. Tôi không biết họ nghĩ sao mà phát ngôn như vậy. Nhân dân quốc nội thuộc quyền cai trị của CSVN, CS nói gì phải nghe nấy. Phải phục tùng hoàn toàn, chứ có gì mà CSVN phải lo sợ, có gì lợi lộc mà CS phải đối thoại để trao đổi hai chiều.

Có người lại nói hòa hợp, hòa giải với CSVN là đầu hàng, là tự làm tê liệt sức chống cộng của CĐNVHN, là tự sát. Tại sao gọi là đầu hàng khi chúng ta dối thoại trong danh dự trong công bằng. Tại sao phải dầu hàng khi mình biết trong tay mình có một loại vũ khí tối tân là tự do dân chủ trong thế giới tự do. Mình tự làm chủ lấy mình để đi tranh luận với người, có tài thì khuất phục được ngườ để chiến thắng trong ôn hòa, giúp người tiến lên con đường tươi sáng cho dân tộc. Tại sao gọi là tự sát, có phải NVHn là bọn ngu ngốc, đi đối thoại là đem dầu đến cho người ta chặt không? Tại sao dầu óc những người xuất thân đại học mà tệ như vậy? Tại sao gọi hòa hợp hòa gai3i là làm tê liệt sức chống cộng đang lên đến đỉnh cao? Phải chăng sức chống cộng của NVHN sẽ lật đổ được chính quyền CSVN hay sao?

Với một QLVNCH hùng mạnh có chính nghĩa quốc gia thời TT Ngô Đình Diệm, với lực lượng quân đội, xe tăng thiết giáp, tàu bay tha hằng ngàn tấn bom ngày ngày trong suốt 20 năm chiến tranh mà rút cục Mỹ cũng bỏ chạy. QLVNCH sợ cũng chạy theo. Rồi 30 triệu nhân dân Miền Nam chống mắt mà nhìn Mỹ tự tiện đưa một thằng cha tay sai thực dân Pháp gốc khố xanh khố đỏ hèn hạ là tên Dương Văn Minh, tên lưu manh đã ngữa tay nhận tiền máu hối lộ của Mỹ để thi hành cái nghề dâm thuê chém mướn. Một tên như vậy, được Mỹ đưa lên không phải là làm tổng thống, nhưng để đầy hàng tức thì. Những điều nhục nhã đê hèn như vậy sao NVHN không nhớ.

Nay đến thời cơ, mình có vủ khí tinh thần đầy quyền năng trong tay mà sợ sệt, sợ trực diện với CSVN là thua, là phải dầu hàng như Dương Văn Minh, là phải tự sát kẻo người ta chặt đầu, người ta làm tê liệt sức chống cộng mạnh mẻ 33 năm nay.

NVQGHN hay chăng 33 năm nay ho chống CSVN với mục đích gì? Phải chăng chống cộng trên các DĐ trên các tờ báo lá cải ở hải ngoại thì CSVN sẽ rớt sao? NVHN cũng thấy rằng họ chống cứ chống mà chơi, Hoa Kỳ và thế giới càng ngày càng xít gần lại với chính quyền CSVN, đem đến vô vàn đặc ân không tưởng để làm CSVN ngày càng có uy tín, ngày càng được thế giới coi trọng hơn bao giờ. Nếu CSVN có gì xấu thì tự họ phát sinh mà thôi. Ai có thể thuyết phục CSVN trở nên tốt lành hơn nếu không phải là CĐ NVHN hải ngoại nương vào cái thế mà mình dã kiến tạo ra từ 33 năm nay đã làm cho CSVN phải ngại ngùng.

Đã d8e61n lúc NVHN phải biết dùng cái kết quả là lực lượng tinh thần mà họ đã tạo ra trên 33 năm nay. Thiên thời, địa lợi nhân hòa đã đến, hơn nữa tình trạng nguy hiểm bị TC cướp Biển Đông và lãnh thổ lãnh hải là cơ hội độc nhất đề NVHN đem sức bình sinh ra giúp nước nếu không họ sẽ mang tôi với tổ quốc và với lịch sử. Cuộc sống của họ cũng đã đi vào ngày tàn, đây là dịp duy nhất của cuộc đời để họ đền đáp nợ nước thù nhà. Nếu không họ sẽ tiếp tục cùng các dồng chí da72n dần đi vào lòng đất với niềm uất hận không nhắm mắt.  

TẠI SAO CHÚNG TA SỢ PHẢI NÓI CHUYỆN VỚI CQ CSVN:

Người ta thường nói “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông; xưa nay những bậc anh hùng làm nên nhũng việc cao cả cũng chỉ nhờ vào chí mạo hiểm vậy”. Sở dỉ tôi nói đến chí mạo hiểm là việc đòi lại TC đất đai biển cả của tổ tiên để lại cho chúng ta và con cháu chúng ta. Đ1o là việc cần thiết, nhưng cần phải mạo hiểm vì TC đã chiếm đứt, xây cất cơ sở, đặt tên thành phố trên lãnh thổ nước ta. Cái mạo hiểm thứ hai dễ dàng hơn là lập phái đoàn đi nói chuyện với CSVN. Đi nói chuyện đây là do CSVN mời, NVHN đang ở trong thế bình đẵng, bình quyền nếu không nói là trong thế thượng phong, vì chúng ta ở trong thế mạnh đi giúp người, giúp nước, không vì tư lợi, không vì lộc đỉnh chung, nên chúng ta chỉ cần có tài thuyết phục CSVN, được thì chúng ta tiến lên giúp dân giúp nước, rủi không thành công, chúng ta trở lại thế mạnh của mình, mà có lẻ còn mạnh hơn vì chính nghĩa của chúng ta càng lớn. Trong cái thể như vậy việc NVH chống CSVN làm sao bị tê liết nếu không nói là nó đã gặt hái được kết quả tốt bất ngờ.

Tất nhiên NVHN

THƯƠNG THUYẾT THÌ ĐÂU CÒN ĐÓ, AI ĂN THỊT MÀ SỢ VẬY:

quan

ĐỐI THOẠI ĐƯỢC THÌ TỐT, KHÔNG THÌ THÔI, MẤT GÌ?

quan

NVQGHN KHÔNG ĐỦ TÀI ĐỐI THOẠI VỚI CSVN CHĂNG?!   

quan
Tại sao chúng ta không dám lý luận trực diện với CSVN? Tại sao chúng ta không dám chống những điều sai trái của CSVN ngay trước mặt họ bằng những lời khôn ngoan chí lý và thue61t phục? Tại sao chúng ta phải dứng xa hàng vạn dặm chưởi đổng CSVN? Nào có ích gì, có hiệu quả gì suốt 33 năm nay không? Hay chúng ta chỉ gián tiếp gây nên cảnh đau khổ cho tôn giáo vì ự tức “giận cá chém thớt” cảu CSVN.   
Đài Loan với Trung Hoa, Bắc Hàn và Nam Hàn
Tổng Thống Hồ Cẩm Đào đã bắt đầu đối thoại với Đạt Lai Lạt Ma. 

NÊN CHẮNG? TỔ CHỨC MỘT KỲ THI TUYỂN LÃNH ĐẠO ĐỂ ĐỐI THOẠI VỚI CSVN:

NVHN

CẦN ĐỐI THOẠI GẤP VỚI CSVN ĐỂ CỨU BIỂN ĐÔNG, NGĂN CẢN TC TÌM DẦU TRÊN LÃNH HẢI CHÚNG TA:

Thật ra ai cũng thấy rằng suốt 33 năm trời, cá nhân thì thành tự trong kinh doanh, học hành, cá nhân giao thiệp với ngoại bang. Nhưng giữa NVHN với nhau thì ngày ngày, tháng tháng, năm năm, chỉ có chia rẻ kình địch, lên DĐ thì phĩnh gạt nhau, chười bới nhau, văng tục đến tận kỳ phùng địch thủ của con người, ôm ấp, nâng niu những tên tay sai TC nằm vùng, nể chúng, sợ chúng hơn sợ ông bà tổ tiên. Tức nhiêm tay sai nằm vùng thì khôn khéo lắm, nịnh bợ giỏi lắm, đánh phá khôn lắm, chỉ có NVHn là dại thôi. Số lớn thì im lặng để an thân với cuộc sống sung túc, nhung êm nêm ấm, có mở miệng thì hùa theo với bọn tay sai TC, chúng chủ trương thôi thúc, khuyến khích chống CSVN, chứ không chống TC, không cứ nước “các anh cứu nước làm gì” tức là để cho TC chiếm đi chứ. Nghe vậy mà toàn thể CĐ NVHn im re, hoàn toàn im re, y như “làm thinh là tình đã muốn”.

++++++++++++++++++++++++++++++

Mat That Cua Cac Ong Thanh Trung Hoa
Trích từ An Việt Tòan Cầu.net

Mặt thật của các ông Thánh Trung Hoa
Vĩnh Như
Diễn đàn Việt Việt học - viethoc.org


Nô lệ tư tưởng là nô lệ từ trong tim óc
Là người Việt Nam chúng ta phải ý thức dù Trung Hoa ở trong chế độ quân chủ chuyên chế, cộng sản độc tài hay tư bản dân chủ đa nguyên, mưu đồ xâm lăng tràn xuống phía Nam –đã trở thành quốc sách từ ngàn xưa- vẫn được liên tục duy trì. Tuy chiến lược chiến htuật có thay đổi mỗi thời mỗi khác.
Chúng ta không chủ trưong bài ngoại, bài Hoa, không theo chủ nghĩa yêu nước cực đoan. Nhưng dứt khoát khẳng định về quyền tự chủ trong đó có chủ quyền về lãnh thổ, lãnh hải, từ Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Sau đó Lý Thường Kiệt đã khẳng định: Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành định phận ở sách trời (thế kỷ thứ 11) và nhất là chủ quyền về văn hóa mà Nguyễn Trãi đã minh định rõ ràng trong Bình Ngô Đại Cáo từ thế kỷ thứ 15.

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Một trăm năm trước Vua Trần Minh Tông (1314-1329) đã xác định: Nước ta đã có phép tắc nhất định; vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ Q.7. Sự việc chép vào năm 1357).
Năm mươi năm sau, trước áp lực của khuynh hướng giới trí thức khoa bảng chịu ảnh hưởng sâu đậm Nho giáo lấy văn hóa Trung Hoa làm trung tâm, làm hệ thống qui chiếu, vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) cũng đã xác định lập trường: Triều đình dựng nước, tự có phép độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau (Sđd, sự việc chép vào năm 1370).
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, độc lập chính trị, kinh tế không thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cần phải liên tục đấu tranh bảo vệ độc lập về văn hóa, trong tinh thần khai phóng và dung hóa. Chúng ta vẫn có thể yêu mến vẻ đẹp bài thơ Đường của Đỗ Phủ hay Lý Bạch hoặc thưởng thức nết thanh thoát thủy mạc của những bức tranh Hạ Khuê (Hsia Kuei) đời Tống.
Học hỏi, thưởng thức cái hay cái đẹp của văn minh Trung Hoa trong tinh thần tự chủ, học hỏi tiếp thu có chọn lựa. Học để biết người biết ta, học để phong phú hóa văn hóa Việt như Nguyễn Trãi. Học để biết người biết ta để đánh đuổi quân xâm lược như Trần Quốc Tuấn.
Cái học đó, nhà cách mạng Việt Nam ông Lý Đông A gọi là cái học nhập nô xuất chủ, chứ không phải cái học nhập nô xuất nô như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Hoặc như đa số trí thức khoa bảng từ cuối đồi Trần về sau. Họ đọc sách của các ông thánh Tàu (Khổng Tử, Mạnh Tử, Chu-Trình v.v...) và để đầu óc nhiễm Tàu sâu nặng đến độ trọng Tàu, sợ Tàu; rồi lấy văn hóa –văn minh Tàu làm trung tâm. Họ tìm cách biến cải văn hóa Việt theo văn hóa Tàu. Họ cưỡng ép nhà vua tổ chức xã hội Việt Nam theo khuôn mẫucủa Tàu như đã trình bày ở phần trên.
Nô lệ tư tuởng là nô lệ từ trong tim óc. Từ đó phát sinh ra tinh thần vọng ngoại, trọng ngoại, sợ ngoại và ỷ ngoại để rồi giao phó sinh mạng của dân tộc và đất nước mình cho ngoại bang.

Cách học nhập nô xuất nô –nhập nô xuất chủ
Thưởng thức cái hay, cái đẹp trong thơ của Bạch Cự Dị – theo chủ nghĩa hiện thực, đồng tình với nỗi đau khổ hoạn nạn của những người ở tầng lớp dưới (bài thơ ông bán than, người tóc bạc Thượng Dương...) thì đồng thời phải thấy đó chỉ là những lời ở đầu môi chót luỡi. Đời sống tư của ông ta đã thể hiện rõ cái bản chất tàn nhẫn gốc du mục và tính hoang dâm của người Tàu có quyền thế, giàu có. “Đâu phải chỉ năm thê bảy thiếp mà còn nuôi gái tơ. Oâng ta mua những cô bé 14, 15 tuổi còn trinh nguyên về nuôi và “ăn nằm”
(để có lợi cho tuổi thọ). Đến 18, 19, 20 tuổi, cảm thấy đã già (không còn có lợi cho tuổi thọ) cũng đã chán chê, liền đem những cô gái này ra chợ cùng bán một thể với bò ngựa, súc vật cần bán của nhà mình. Ông ta đối xử như thế với thiếu nữ, những người đàn bà trẻ trạc 20 tuổi, già rồi đem bán cùng lừa ngựa như thế là quan tâm đến con người hay sao? (Vương Sóc –Người Đẹp Tặng ta thuốc bùa mê- nxb Văn Hóa Dân tộc năm 2000, tr. 226.)
Chúng ta cần đọc, học hỏi lời hay ý đẹp như nhân trị, chính danh v.v... trong Ngũ Kinh của Khổng Tử, nhưng đồng thời phải nhận thức được mặt thực của vấn đề. “Trên thực tế không chỉ có những nhà tung hoành mà ngay Khổng Tử cũng đi chu du một loạt nước để bán rao lý lẽ, giống như những “quan chạy” thời bây giờ... Ông ta đi chu du một loạt nước chẳng qua là để chạy vại, kiếm một chút tước. Ông ta nói nhân nghĩa nhưng được làm quan rồi thì cũng độc ác, tàn nhẫn như thường, làm được mấy ngày Đại Tư Khấu thì giết luôn Thiếu chính Mão (Vương Sóc sđd, trang 320) và sau đó xử tử 2 tội nhân.
Ông Bá Dương trong quyển Người TQ Xấu Xí đã nhận định: Có một nhân vật cổ quái đã nói một câu “Dân vi quy,ù quân vi khinh” (Dân là quý, vua là thường). Đây chỉ là một thứ lý tưởng mà Trung Hoa chưa bao giờ thực hiện (trang 72).

MặT THậT CủA KHổNG Tử
Khổng Tử là ông thánh của Trung Hoa và có thể là vĩ nhân của nhân loại, nhưng các tộc Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà phải nhận thức được chủ trương của ông thánh đó là hưng Hoa diệt Di. Theo nữ triết gia Việt Nam Đông Lan –môn sinh chân truyền của cố triết gia Kim Định (chữ của học giả Lê Việt Thường) thì Tứ Di là Bách Việt (Đông Lan –Yêu Mến An Vi- nxb Văn Hiến năm 2004, trang 188, dòng 15). Cũng theo nữ triết gia Đông Lan nhà Chu là dân phía Tây Bắc thuộc về dân du mục hoặc bán du mục, hiếu chiến, phụ hệ trọng võ (sđd, trang 199) mà chủ trương của Khổng Tử là hưng Hoa diệt Di.
Khổng Tử suốt đồi ấp ủ hoài bảo phục hoạt chế độ nhà Chu do Chu Công thiết lập “dựa trên ý niệm thiên tử, luật hình, hoạn quan, đàn áp đàn bà, khinh miệt dân chúng (gọi lê dân = dân đầu đen), chuyển tài sản từ làng xã sang tay nhà vua, Chu Nho là văn hóa du mục (sđd, trang 199). Thế mà Khổng Tử tự nhận đêm ngủ thường vẫn mộng tưởng Chu Công. Sau thời gian chu du các nước, biết giấc mộng không thành, ông trở về nước Lỗ dạy học. Suốt đời Khổng Tử chỉ mong nối được sự nghiệp của Chu Công. Ông ước ao điều đó lắm, đến nỗi nó ám ảnh ông, khiến ông nằm mộng thấy Chu Công. Ta theo Chu (Ngô tòng Chu – thiên Bách dật, bài 14). Một hôm tự than rằng quá lắm vậy! Ta suy nhược rồi! Từ lâu, ta chẳng mộng thấy Chu Công (Luận Ngữ –thiên thuật nhi).
Một trong những trí giả gốc du mục sớm nhận thức được hiểm họa văn hóa du mục bị thuần hóa bởi văn hóa Bách Việt có lẽ là Khổng Tử. Ông ta tìm mọi cách phục sinh trật tự thế chế nhà Chu, một thể chế mang tính du mục cho nên ông ta hoàn toàn thất bại vì chủ truơng của ông ta phục hoạt thể chế nhà Chu: Không nước nào chấp nhận để cho nhà Chu thống trị, nhất là các nước thuộc Bách Việt.
Nhưng trước đó Quản Trọng phối hợp vănhóa và quân sự đã thành công trong việc đàn áp, dẹp yên dân Bách Việt (bình thiên hạ) xây dựng nghiệp bá cho Tề Hoàng Công. Chính vì thế mà Khổng Tử đã khen Quản Trọng hết lời: Cho đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông ấy. Không có quản Trọng thì chúng ta phải giốc tóc (bện) và cài áo bên trái (tả nhậm) như người người mọi rợ (Luận Ngữ –chương hiến vấn). Nói khác đi là đã bị Bách Việt hóa.
Như vậy, thuật nhi bất tác, tính nhi hiếu cổ (không sáng tác kinh điển mà chỉ sang định, chỉ thuật lại đạo cổ xưa) chỉ là cố uốn nắn khéo léo cái ưu điểm của văn hóa Bách Việt để che giấu hoài bảo phục sinh thể chế nhà Chu, trong sách lược hưng Hoa diệt Di. Cho nên Khổng Tử chủ trương bình thiên hạ tức dẹp yên Tứ Di (Bách Việt).
Tham vọng bành trướng và tư tưởng bá quyền là những biểu hiện của tinh thần phi dân chủ. Ngoài (nước ngoài) thì coi thường nước khác dân tộc khác, đối lập Hoa Hạ với Tứ Di, trong (trong nước) thì coi thường dân chúng, coi thường phụ nữ, đối lập người quân tử (cai trị) với kẻ tiểu nhân (dân chúng). Khổng tử nói tới dân chúng ở nhiều chỗ với một gịọng rất miệt thị, coi thường: dân chúng có thể khiến họ theo, chứ không thể giảng cho họ hiểu được (Luận Ngữ, Thái Bá 9). Ông nhiều lần tỏ ra khinh bỉ dân chúng một cách rõ rệt: Sở dĩ người quân tử không muốn ở chung với đám hạ lưu vì bao tội ác trong thiên hạ dồn cả về đó (Luân Ngữ, Tửø Trương 20). Nói đến phụ nữ ông bảo: chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán (Luận Ngữ Duơng Hóa 25) –Trần Ngọc Thêm- Tìm về bản sắc văn minh Việt Nam, nxb tpHCM năm 2001, trang 482-483.
Tóm lại, Khổng Tử chủ trương tòng Chu, hưng Hoa diệt Di (Bách Việt) kỳ thị chủng tộc (qua lời khen Quản Trọng, coi Bách Việt là mọi rợ), miệt thị dân chúng, khinh bỉ đàn bà... Như vậy thuật nhi bất tác chỉ là lối nhân nghĩa và đạo đức giả của Khổng Tử với mưu đồ đồng hóa và diệt chủng các giống dân Tứ Di, tức Bách Việt mà theo triết gia Đông Lan, “sắc dân Bách Việt đã vào và cư ngụ trên đất Tàu ngày nay trước khi có một dân tộc thực sự là Tàu xuất hiện” (sđd, trang 186, dòng 6-8).
Với chủ trương dùng nhân nghĩa –thuật nhi bất tác- ở đầu môi chót lưỡi, tức lời nói khác với hoài bảo của mình để thay cho việc binh đao.
Cái đạo đức chuyên lấy của người –thuật nhi bất tác- khéo léo uốn nắn theo nhu cầu của mình (Tu, Tề, Trị, Bình) đánh lừa thiên hạ với dã tâm đồng hoá các giống dân khác thành người Tàu. Đó là sách lược lùi không đánh, giả bộ lấy đạo đức của người và đồng hoá họ làm dân mình. Hoà nhi bất đồng của văn minh Hoàng Hà là cái màn che giấu mưu đồ thầm kín, hòa để mà hóa của người thành cuả mình. Cho nên “hòa” gốc du mục khác hẳn với “hòa cả làng” của văn minh sông Hồng, phát xuất từ nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước (Văn hóa Hòa Bình).
Đây là sách  lược vô cùng thâm độc của họ Khổng. Do đó Mặc Tử đề xướng thuyết Kiêm Ái (thương mọi người) để chống lại lối giả nhân giả nghĩa của Khổng Tử. Còn Lão Tử chủ trưong bình đẳng, tự do, sống hài hòa với thiên nhiên, trở về với sự chất phác, thuần lương là những giá trị đi ngược lại với chế độ phong kiến nhà Chu, kiến dựng trên quân quyền, phụ quyền và nam quyền.
Chủ nghĩa bành trướng là nét đặc thù độc đáo nhất trong sự hình thành nước Trung Hoa với bệnh HỘI CHỨNG ĐẠI HÁN, từ triều đại này qua triều đại khác, quyết tâm xóa sạch văn hóa Bách Việt một cách có hệ thống, từ Quản Trọng, Khổng Tử cho đến Tôn Dật Tiên, Tưởng giới Thạch, Mao Trạch Đông và kéo dài đến ngày nay.
Thế hệ của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào bây giờ cũng không đi ra ngoài sự chỉ giáo của Khổng Tử: Phải hành động như Quản Trọng –phối hợp quân sự và văn hóa- để đồng hóa đến người Bách Việt cuối cùng (tộc Lạc Việt tiền thân của dân tộc Việt Nam) thành người Tàu.

Vĩnh Như


Hỏa mù trong mặt trận Văn hóa
giữa dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa

Vĩnh Như
Diễn đàn Việt Việt học - viethoc.org


Điều làm nhiều người vô cùng ngạc nhiên là vào thời điểm này –duới ánh sáng mới của khoa học- mà còn một số trí thức khoa bảng Việt Nam tung ra hai hỏa mù trong mặt trận văn hóa giữa Ta và Tàu:

1- Khuynh hướng xem văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Tàu: Việt Nam cùng lắm cũng chỉ là một cành Nam của gốc Hán.
2- Khuynh hướng đi tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam ở tận bên Tàu: Khổng Tử đã công thức hóa, chữ nghĩa hóa văn hóa của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu thành Ngũ Kinh và Tứ Thư. Khuynh hướng này cho rằng nếu bỏ Nho thì chúng ta chỉ tìm thấy ngọn chứ chưa đến tận gốc của văn hóa Việt. Khuynh hướng này đã “sáng tạo” ra quan niệm Nho giáo có bốn giai đoạn:
a) Hoàng Nho, thuộc Tam Hoàng từ 4450-3080 trước Tây lịch.
b) Di Nho, thuộc thời vua Thuấn (2255 trước Tây lịch), vua Vũ (2205 trước Tây lịch).
c) Việt Nho, hay Nguyên Nho (nội dung Việt Nho được Khổng Tử công thức hóa thành kinh điển của Nho giáo thời Xuân Thu 821 trước Tây lịch.
d) Hán Nho cũng là Nho giáo từ thời nhà Chu (1122 trước Tây lịch), nhưng bị sa đọa với sự xuyên tạc của nhà Hán (Đông Lan Yêu Mến An Vi, nxb Văn Hiến năm 2004, tr. 194).

Nói Nho giáo là của Trung Hoa thì quá chung chung, và do vậy, không có sức giải thích. Còn nói rằng chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Bách Việt sống trên đất Tàu khởi sáng, rồi sau đó người Tàu hoàn bị thì có lẽ quá cực đoan và không có sức thuyết phục 95% người dân Việt sống trong xóm làng, cái nôi của văn hóa Việt Nam.

Phải chăng văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Trung Hoa?
Những quan niệm, ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Quốc Vượng ghi trong cuốn Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, cộng thêm những gợi ý, ý kiến của tác giả Trần Ngọc Thêm ghi trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Cung Đình Thanh trong tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học, tác giả Đào Văn Dương và tác giả Thường Nhược Thủy trong Đạo Sống Việt.
Duới ánh sáng mới của khoa học (khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học, di truyền học, hải dương học v.v...), với những tài liệu vật chất lấy lên từ lòng đất Việt Nam, người ta đã chiếu rọi vào quá khứ hàng mấy vạn năm.

Các nền văn hóa trên đất Việt.
Chỉ cần đi sâu nghiên cứu văn hóa Hòa Bình thôi (trước 15.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay) chúng ta biết được cư dân hòa bình (tiền thân của dân tộc Việt Nam) đã thuần hóa cây lúa hoang thành cây lúa nước (Oryza Sativa), thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước từ 6.000 năm đến 7.000 năm trước đây, trong bối cảnh Đông Nam Á, có thiên nhiên phong phú và đa dạng. Trước đó cả ngàn năm cư dân Hòa Bình đã biết trồng cây có củ, cây ăn quả (bầu bí, rau dưa) v.v... Các nhà nghiên cứu đều đồng thuận nông nghiệp, nông nghiệp trồng lúa nước là khởi đầu văn minh nhân loại. Cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước đánh dấu một bước tiến bộ vĩ đại trong đồi sống của cư dân Hòa Bình đã để lại cho chúng ta một niềm tự hào lớn. 

1. Văn hóa Hoà Bình là nền văn hóa tiếp nối nền văn hóa Sơn Vi (huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú) thuộc hậu kỳ đá cũ, có tuổi từ 25.000 năm đến 15.000 năm trước ngày nay. Văn hóa Hòa Bình được quốc tế công nhận vào ngày 30 tháng giêng năm 1932, do Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Nền văn minh trồng lúa nước vốn là nền văn minh của cư dân Hòa Bình đã tạo được thế quân bình bền vững của nền văn hóa xóm làng (văn hóa truyền miệng, văn hóa chìm hay văn hóa vô ngôn), giữa con người và thiên nhiên Việt Nam trong khủng cảnh Đông Nam Á từ ngàn xưa (chứ không phải thiên nhiên Tàu, thiên nhiên Hoàng Hà)
2. Tiếp theo văn Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn), với những chiếc rìu mài lưỡi nổi tiếng, cả thế giới đều biết.
3. Tiếp theo vân hóa Bắc Sơn (từ trước 10.000 năm đến 6.000 năm trước ngày nay) là văn hóa Phùng Nguyên (Phú Thọ) cách ngày nay khoảng 4.500 năm, cội nguồn của văn minh sông Hồng. Đó là thời đại các vua Hùng dựng nước. Di tích văn hóa Phùng Nguyên được tìm thấy ở nhiều tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng.
4. Tiếp theo văn hóa Phùng Nguyên là văn hóa Đông Sơn, có niên đại sớm là 2820 năm cách ngày nay, với trống đồng, trong đó có trống đồng Ngọc Lũ nổi tiếng trên thế giới.

Trong lúc người Việt cổ xây dựng nền văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn thì cái nước mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Hoa mới được tạo dựng lên ở mạn trung lưu Hoàng Hà, và nền văn minh Trung Hoa ban đầu là nền văn minh Hoàng Hà với ranh giới ba tỉnh bây giờ: Sơn Tây (Quê hương của Đế Nghiêu), Hà Nam (quê Hạ Vũ, kinh đô của nhà Ân), Thiễm Tây (Núi Kỳ sông Vị, quê hương của nhà Chu từ 1122 đến 25 trước Tây lịch.
Nếu đầu óc không bị điều kiện hóa bởi văn hóa Trung Hoa thì đứng ở góc độ nào –văn hóa bác học hay văn dân gian- cũng nhận thấy sự khác biệt giữ văn hóa Việt và văn hóa Tàu. Vì văn hóa theo nghĩa rộng là thiên nhiên –môi trường sống- được thích ứng, biến đổi bởi con người để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người. Nói cách khác, văn hóa là toàn thể các hình thái sinh hoạt về vật chất và tinh thần của con người trong cách thích ứng, tiếp xử với thiên nhiên và xã hội, lịch sử. Từ đó hình thành cách làm ăn (chăn nuôi theo bầy, sống đồi sống du mục hay trồng trọt đời sống định cư với xóm làng), cách ăn, mặc, ở, cách ứng xư, thái độ của con người đối với thiên nhiên, vũ trụ, xã hội và lịch sử. Như vậy, nói một cách đơn giản thiên nhiên –môi trường sống- và lịch sử là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng sâu rộng đối với con người trong việc hình thành văn hóa.

Sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa

Trong những điều kiện đó, văn hóa Việt Nam (văn minh sông Hồng) và văn hóa Trung Quốc (văn minh Hoàng Hà) khác nhau từ căn bản: Từ tiếng nói, lối sống, cách ăn, mặc, ở, lối suy nghĩ, cung cách ứng xử đến cội nguồn.
Phải chăng giới trí thức khoa bảng Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong khi tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tức nhìn lại chính mình để biết mình là ai? Đầu óc đã bị điều kiện hóa, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Trung Hoa : Nào thơ Đường, điển tích Tàu, tam cương ngũ thường v.v..., đôi khi quên đi cả thiên nhiên Việt mà họ đang sống như đã trình bày ở phần trên. Trái lại, người dân Việt nhận thấy sự khác biệt giữa Ta và Tàu dễ dàng.
Tiếng nói khác. Ngày xưa Tàu mặc quần, Việt mặc váy: cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không. Ngày nay, Ta mặc áo dào, Tàu mặc áo Xườn Xám của Mãn Thanh. Nón lá của ta khác hẳn nón vành ngang của Tàu. Tàu ăn cháo kê, bánh bao, dùng xì dầu. Ta ăn cơm, ăn xôi, ăn bánh chưng bánh dày, bát tương, chén nước mắm và đặc biệt đôi đũa là một sáng tạo của văn minh trồng lúa nuớc của Việt Nam. Từ địa hạt vật chất đôi đũa đã đi vào lĩnh vực tinh thần, triết lý Việt Nam: Vợ chồng như đôi đũa có đôi, chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho đều; vơ đũa cả nắm, thủ tục ly hôn ngày xưa là bẽ đũa. Thời trước Khổng Tử (Xuân Thu Chiến Quốc) cho đến nhà Tần (221 trước Tây lịch) Tàu ăn bốc (ăn bánh bột luộc, bánh bao). Khi Tần Thủy Hoàng chiếm miền Nam sông Dương Tử và từ đời Hán trở đi người Tàu bắt đầu tiếp thu đôi đũa của dân trồng lúa nước ở phía Nam.

Tàu ăn nhiều mỡ (xứ lạnh) ít rau. Ta ăn mỡ ít (xứ nóng) nhiều rau, đủ loại đủ màu, thường ăn rau sống nhiều hơn Tàu. Có thể nói là gì và hoa gì ăn được đều có mặt trong nồi canh của nông dân Việt: đói ăn rau, đau uống thuốc. Nghệ thuật nấu ăn của Trung Quốc là đổ mỡ vào thức ăn để chiên, xào. Trái lại nghệ thuật nấu ăn của người Việt là nấu, nướng và luộc nghĩa là rút mỡ từ thức ăn ra: điều này phù hợp với nghệ thuật ăn uống dùng ít mỡ trong bữa ăn theo tiêu chuẩn dinh dưỡng hiện đại.

Càng ngược dòng lịch sử sự khác biệt càng sâu sắc. Lưu vực Hoàng Hà là khu vực khí hậu đại lục, lạnh lẽo, khô hạn, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao, có nhiều đồng cỏ mênh mông thích hợp cho nghề chăn nuôi theo bầy, kéo theo đời sống du mục nay đây mai đó lang thang trên cánh đồng cỏ. Lưu vực sông Hồng là khu vực khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, nước dư thừa, nhiệt đầy đủ với những đồng bằng thích hợp cho việc trồng trọt sống định canh định cư trong xóm làng.

Đất trồng trọt của người Trung Hoa ban đầu ở cao nguyên và bình nguyên Hoàng Hà là hoàng thổ, do gió Tây mang lại. Đất trồng trọt của người Việt ở lưu vực các dòng sông là phù sa nâu, do sông cái sông con bồi đắp. Nông nghiệp Trung Hoa, khi người Hoa Hạ chiếm lưu vực sông Hoàng Hà, từ khởi thủy là nền nông nghiệp trồng khô. Nông nghiệp Việt Nam, từ ban đầu, là một nền nông nghiệp trồng nước, trồng lúa nước, sử dụng hệ thống ngập nước, ruộng Lạc theo nước thủy triều lên xuống, với hệ thống tuới nước đa dạng (gàu dai, gàu sòng, kênh ngòi).

Người Trung Hoa trồng túc –tiểu mễ hay kê- sau đó trồng cao lương, rồi trồng lúa mạch kiểu trồng khô. Người Việt trồng cây có củ (khoai các loại) và đặc biệt từ 6000 đến 7000 năm trước đây đã trồng lúa nước.

Kỹ thuật trị thủy sông Hoàng Hà, người Trung Hoa khơi sâu và khơi nhiều dòng chảy. Trái lại, kỹ thuật trị thủy của người Việt là đắp đê. Ít nước trên mặt, người Trung Hoa phải đào giếng để tìm nguồn nước. Người Việt sống ở vùng sông ngòi chằng chịt, đầm đìa, hồ ao khắp nơi, quen sử dụng nước trên mặt. Ở Việt Nam ao rất đa dạng: Ao nuôi cá, ao rau muống v.v... Ao đã đi vào cuộc sống tinh thần: Đêm qua ra đứng bờ ao; trúc sinh trúc mọc bờ ao; ao thu lạnh lẽo nước trong veo.

Người Trung Hoa ở nhà hầm, người Việt Cổ sáng tạo cái nhà sàn với mái cong độc đáo hình thuyền. Luật pháp của Tàu và Ta hoàn toàn khác nhau. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng thất bại Mã Viện tâu với vua Hán rằng luật Việt và luật Hán khác nhau đến mười điểm, và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt (Luật Hồng Đức đời Lê hoàn toan khác hẳn luật Tàu). Sẽ trình bày vào một dịp khác.

Tâm Việt Hồn Việt còn thì văn hóa Việt còn
Người còn tâm Việt, hồn Việt nhìn vào đời sống hàng ngày nhận ra ngay sự khác biệt giữa Tàu và Ta: Tiếng nói khác, cách chào hỏi khác (Tàu: Ăn chưa? Việt: Mạnh khỏe không?), cách mặc khác, thức ăn khác, kỹ thuật nấu ăn khác, lối xưng hô khác (Tàu: nị ngô như Tây phuơng toi, moi, you me; Ta: chú bác, cô, dì, cậu, mợ, anh, chị, em v.v...) Đi lại ở miền khô, trên vùng cao nguyên, gần thảo nguyên, thuận lợi cho việc chăn nuôi ngựa, người Trung Hoa thường dùng ngựa, xe cộ trong kỹ thuật giao thông. Quân đội lấy
ưu thế là kỵ binh. Lúc đầu người Trung Hoa lấy Ngựa làm biểu tượng cho dân tộc Tàu, sau đổi thành con vật mình ngựa đầu rồng, rồi đến Cọp và sau cùng là Rồng. Dân tộc Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng, miền sông nước chằng chịt với hồ ao khắp nơi, gắn trồng trọt với chài lưới, thuyền bè các loại trở thành phương tiện giao thông chính. Thế cho nên, người Việt từ thượng cổ đã nổi tiếng lặn giỏi, bơi tài, giỏi cùng thuyền.Yếu tố sông nước trong môi trường sống đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Từ cái làm (trồng lúa nước) đến cái ăn (gạo, đạm thủy sản), chốn ở (nhà sàn, sống trên thuyền bè, chợ thuyền, nhà sàn trên nước) giao thông (thuyền bè, cầu phao) giải trí (múa rối nước) (quân sự thạo thủy chiến) cho đến cái chết (thuyền táng) đều liên hệ đến nước. Tổ tiên chúng ta lấy Tiên và Rồng làm biểu tượng của cội nguồn dân tộc Việt Nam.

Người Việt mà có nhãn quan Tàu
Người mang cặp mắt kiến Tàu –không còn tâm Việt, hồn Việt- nhìn vào đời sống của người Việt Nam thấy cái gì cũng là Tàu hoặc chịu ảnh hưởng Tàu hay từ Tàu mà ra. Chẳng hạn, đến như học giả Nguyễn Hiến Lê, một khi đã đeo cặp mắt kiến Tàu cũng không giữ đuợc thái độ khách quan trong nhận định: Đối với dân tộc Di, Địch, Khổng Tử không có tinh thần phân biệt chủng tộc, mà chỉ phân biệt văn hóa như khi ông bảo không nhờ công của Quản Trọng thì người Hoa Hạ đã bị gióc tóc mặc áo có vạt bên trái rồi (Nguyễn Hiến Lê), Khổng Tử, nxb Văn Nghệ năm 1992, tr. 188, dòng 11 đến 15). Văn hóa là linh hồn của một dân tộc. Vậy, kỳ thị phân biệt văn hóa mà không kỳ thị dân tộc, kỳ thị chủng tộc thì sao được?
Hơn nữa, Khổng Tử xem dân tộc Di tức Bách Việt là dân mọi rợ trong lời phát biểu của ngài: Cho đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông ấy. Không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và cài áo bên tả như người mọi rợ rồi (Nguyễn Hiến Lê, lịch sử văn minh Trung Hoa, nxb Văn Nghệ năm 1993, trang 26, dòng 17 đến 19). Xem dân tộc Di là dân tộc mọi rợ mà cho rằng Khổng Tử không có tinh thần kỳ thị chủng tộc được sao?
Điều đó cho thấy trí thức khoa bảng Việt Nam, một khi đã có nhãn quan Tàu thì các ông thánh Tàu có miệt thị tổ tiên mình cũng cố tìm cách đổi chữ, hoặc bóp méo đi hay thay đổi lối suy nghĩ để nuốt cho trôi liều thuốc đắng ngõ hầu bảo vệ những thần tượng mà mình đã trót tôn thờ từ lâu.
Đối với 95% người dân Việt chất phác, hiền lương, thiện lành thì không có vấn đề. Còn giới trí thức khoa bảng trẻ Việt Nam, không đọc được chữ Tàu, hãy thận trọng trong khi nghiên cứu, tìm hiểu về Trung Hoa, phải đề cao cảnh giác những trí thức khoa bảng Việt Nam rành chữ Hán có thể họ bóp mép sự thật –vì vô tình bởi đầu óc bị điều kiện hóa bởi văn hóa Tàu hay có mưu đồ- sẽ đưa chúng ta vào con đường nô lệ tư tưởng Tàu với cách học nhập nô xuất nô. Như trên đã trình bày nô lệ tư tưởng là nô lệ từ trong tim óc, tức không còn tâm Việt hồn Việt. Từ đó phát sinh ra tinh thần vọng ngoại, sợ ngoại, trọng ngoại và ỷ ngoại để rồi giao sinh mệnh của dân tộc và đất nước mình cho ngoại bang. Là người Việt Nam, nếu không sáng suốt trong suy nghĩ, trong hành động, trong cách học về Trung Hoa học vô tình chúng ta sẽ trở thành đoàn quân gián điệp văn hóa cho Trung Quốc.

Đã đến lúc chúng ta cần trở về với chính mình để hiểu rõ chân xác chính chính mình về mặt tri thức và tâm thức.

VN


Lời mở đầu
Mọi người đều biết hiện nay Trung Hoa đang nỗ lực trong việc tăng cường lực lượng quân sự. Họ đã và đang tăng ngân sách quốc phòng lên chưa từng thấy và cố gắng trở thành một siêu cường về quân sự và kinh tế. Trung Hoa còn có tham vọng lãnh đạo thế giới về mặt tư tưởng. Tập đoàn Hồ Cẩm Đào đang tìm cách phục hoạt tư tưởng của Khổng Tử để làm “nhạc trưởng” điều hợp ban nhạc triết học Đông Tây. Đó cũng là ý kiến của các triết gia tại hội nghị triết học thế giới lần thứ nhất năm 1949 tại Honolulu.

Trung Hoa Một Siêu Cường Về Quân Sự Ở Á Châu.

Một nhân vật cao cấp của viện International Assesment and Strategy ở Washington, ông Richard Fisher chuyên về Trung Hoa nhận định rằng Trung Hoa muốn trở thành cường quốc thống trị Tây Thái bình dương, đuổi người Mỹ trở lại Hawaii hay đàng sau nữa.
Theo viện này, Trung Hoa mua mười tỷ đô la tàu lặn và nâng cấp tàu lặng đã có với những vũ khí tối tân. Còn tàu chiến thì Trung Hoa trang bị hỏa tiễn hải không, hải lục.
Mỹ phát giác tàu lặn Trung Hoa trong vùng biển phía tây đảo Guam. Nhật cũng đã báo động tàu lặn Trung Hoa lảng vảng gần hai đảo của Nhật.
Sự phát triển tàu lặn của Trung Hoa đã biến nước Tàu thành một quốc gia có hải lực mạnh hơn Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Nhật. Mỹ đã ý thức được nguy cơ bành trướng của Trung Hoa trên Thái bình dương, nên có kế hoạch đảo ngược cách bố trí tàu lặn thời chiến tranh lạnh.
Theo nhận định của cơ quan phân tích chiến lược Pacific Society vị chủ tịch Hiroshi Nakajima nói: Ảnh hưởng của Trung Hoa trên các đảo của Thái bình dương vô cùng lớn, lớn hơn của Nhật nhiều. Quyền lợi của Trung Hoa và Mỹ sẽ xung đột nhau. Trung Hoa trở thành đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ bước vào thế kỷ 21. Bắc Kinh đã nói không úp mở Á châu phải là khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa và chính thức cảnh cáo Mỹ không được phép can thiệp vào cuộc tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa giữa Hoa Lục và các quốc gia vùng Đông Nam Á. Không những thế Trung Cộng còn công khai kêu gọi sự triệt thoái toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực Thái bình dương...Tư lệnh Hải quân Trung Hoa đã từng công khai tuyên bố rằng để sinh tồn Trung Hoa rất cần dầu khí và ngư nghiệp của Nam Hải –cá sẽ là nguồn protein cho hơn một tỷ người Trung Hoa (Ngô Thế Vinh –Cửu Long cạn dòng- Biển Đông dậy sóng, nxb Văn Nghệ năm 2001, tr.369).

Trung Hoa Một Siêu Cường Về Kinh Tế Ở Á Châu.
Theo Tân Hoa xã, ngành thương mại Trung Hoa đã thặng dư mậu dịch mức kỷ lục trong 6 năm qua. Trong năm 2004, giá trị thương vụ xuất cảng cao hơn giá trị thương vụ nhập cảng. Thống kê của Cục Hải quan Trung Hoa công bố vào trung tuần tháng 1 năm 2005 cho thấy, chỉ riêng trong tháng 12-2004, mức thặng dư mậu dịch lên tới 11,08 tỷ Mỹ kim. Đây cũng là tháng thứ tám liên tiếp trong năm, ngành thương mại Trung Hoa đạt thặng dư.
Kinh tế Trung Hoa đang phát triển mạnh, nhưng đa số người dân nghèo đói. Đây cũng là vấn nạn của Nhật hiện nay (sẽ trình bày trong một dịp khác). Trung Hoa có tham vọng trở thành cường quốc kinh tế. Hiện nay Mỹ vẫn là cường quốc kinh tế số 1 nhưng không còn chỉ huy kinh tế thế giới. Trung Hoa có mưu đồ thay thế vai trò của Mỹ. Nhật báo USA Today đăng tin về một bản báo cáo của Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ, trong đó có lời tiên đoán trong 15 năm tới, một biến cố quan trọng hàng đầu là sự bành trướng của các nền kinh tế Trung Hoa và Ấn Độ sẽ gây ảnh hưởng lớn trên thế giới.

Chủ Nghĩa Bành Trướng Bá Quyền Của Trung Hoa
Chúng ta nhận thấy, đã bao nhiêu thế kỷ, khi nào Trung Hoa định thực hiện sách lược bành trướng về phương Nam, các nhà lãnh đạo phương Bắc cũng tìm cách làm chủ Biển Đông và đánh chiếm Việt Nam để làm bàn đạp thực hiện mưu đồ bành trướng xuống Đông Nam Á, nhưng đều bị người Việt chận đứng.
Suốt chiều dài của lịch sử, không có triều đại nào của Trung Hoa từ bỏ tham vọng bành trướng về phương Nam và luôn luôn coi Việt Nam là quân huyện của Tàu. Nhà Chu đánh chiếm đất đai của các tộc Bách Việt ở lưu vực sông Hoàng Hà. Thời Xuân Thu, Quản Trọng dẹp yên nhóm Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà và chiếm một phần đất của nhóm Bách Việt ở phía bắc sông Dương Tử. Cho nên Khổng Tử đã hết lời khen Quản Trọng: Quản Tử đã làm ơn cho hậu thế vì nếu không nhờ ông thì chúng ta (người Trung Quốc) phải gióc tóc và cài áo bên trái như người mọi rợ rồi (Luân Ngữ-Chương Hiến Vấn). Nói khác đi là đã bị Bách Việt hóa.
Cuối thời Chiến Quốc, sau khi thống nhất nước Tàu (221 trước Tây lịch) Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư đánh chiếm đất đai của Bách Việt. Quân Tần vượt sông Dương Tử chiếm Quí Châu, Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, quảng Tây và Vân Nam. Nhà Tần phát khởi từ miền biên tái Viễn Tây Trung Hoa. Trong một thời gian ngắn ngủi 15 năm nhà Tần đã bành trướng lãnh thổ từ Nam Mông Cổ đến tận Quảng Đông và Quảng Tây. Sau khi chiếm trọn miền Nam Trung Hoa, các nhà lãnh đạo hương Bắc từ Tần, Triệu (Triệu Đà), Hán, Tùy, Đường, Tống đến Nguyên và Thanh luôn luôn tìm cách Hoa hóa dân tộc Việt Nam, nhưng đều thất bại.
Trung Hoa có trăm phương ngàn kế, với sách lược vô cùng thâm độc để xâm lăng Việt Nam. Cuối thế kỷ 20, sau khi dùng quân sự (dạy cho Việt Nam một bài học hồi đầu năm 1979 thất bại, Trung Hoa chuyển sang thủ đoạn chánh trị “tầm ăn dâu”, lấn chiếm dần dần đất và biển bằng những hiệp ước bất bình đẳng giữa các nhà lãnh đạo phương Bắc mang não trạng độc tôn độc hữu gốc du mục, kiêu căng trịch thượng với các quan thái thú -thân Việt, óc Tàu- đang thống trị dân tộc Việt Nam (Hiệp ước nhượng đất ngày 30-12-1999, Hiệp ước nhượng biển ngày 25 tháng 12 năm 2000).

Cuộc Xâm Lăng Không Tiếng Súng
Bước sang thế kỷ 21, trong những ngày đầu của tháng giêng năm 2005, cảnh sát tuần duyên thuộc công an biên phòng Trung Hoa đã nổ súng tấn công bắn chết 9 ngư dân Việt vô tội, làm bị thương nhiều người khác và bắt giữ 8 người trong đó có 2 người bị thương. Cả người và tàu đánh cá đều bị Trung Hoa trắng trợn chiếm giữ. Phải chăng hành động tàn bạo dã man nói trên chỉ là một trong những thủ đoạn hù dọa khủng bố để che giấu những âm mưu của sách lược xâm Việt Nam không tiếng súng?
Thời đại đem quân xâm chiếm nước người để thiết lập một hệ thống cai trị trực tiếp, không còn hợp thời nữa, đã qua rồi. Hầu như mỗi lần có một vụ đụng chạm giữa Trung Quốc và Việt Nam thì người Việt ở khắp nơi trên thế giới đều nhất loạt đồng tâm đứng về một phía vì tình tự dân tộc, máu chảy ruột mềm. Và có thể cả thế giới phản đối lên án hành động bạo ngược gian trá của chế độ Bắc Kinh. Hành động nói trên không những vi phạm trắng trợn các hiệp định thỏa hiệp giữa Trung Hoa và Việt Nam và các hiệp ước quốc tế mà còn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Trung Cộng tự coi vùng lãnh hải Việt Nam là của họ.

Quốc Gia Nạn và Dân Tộc Nạn
Hơn hai ngàn năm qua, Trung Hoa đã nhận thấy rằng không thể nào dùng quân sự để biến Việt Nam vĩnh viễn trở thành quận huyện của Tàu và Hán hóa dân tộc Việt Nam như đã Hán hóa các tộc Bách Việt ở miền Nam Trung Hoa.

Quốc Gia Nạn
Ngày xưa, Trung Hoa đã đô hộ Việt Nam trên một ngàn năm với thủ đoạn cai trị khắc nghiệt cùng chính sách đồng hóa vô cùng thâm độc, nhưng ông cha ta đã vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. Vì tuy chiếm được đất đai, cướp đọạt được tài nguyên và của cải, Hán hóa được đầu óc của đa số trí thức khoa bảng, nhưng không tẩy xóa được tâm Việt, hồn Việt của đại đa số nông dân Việt sống sau lủy tre làng, nên dân Việt, với ý chí giành độc lập vững mạnh, luôn luôn vùng dậy khởi nghĩa, đấu tranh liên tục để giải phóng cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của phương Bắc.
Đất đai bị ngoại bang chiếm đóng, tài nguyên của cải vật chất bị vơ vét, người dân bị bóc lột tận xương tủy, đa số trí thức khoa bảng bị vong thân, mất gốc. Nhưng hồn nước còn, ý chí giành độc lập còn thì đó mới chỉ là quốc gia nạn. Quốc gia nạn cũng đáng sợ nhưng không phải là tuyệt vọng vì người dân có thể vùng dậy đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi đất nước. Điều này đã được lịch sử Việt Nam minh chứng khá rõ ràng. Cho nên rơi vào trạng huống dân tộc nạn mới nguy hiểm vì chắc chắn sẽ đi đến diệt vong.

Dân Tộc Nạn
Dân tộc nạn là lãnh thổ còn, tiếng nói còn và có thể truyền thống tập tục cũng còn mà đầu óc của người dân đã bị ngoại bang hóa –Hán hóa hoặc Tây hóa-, hồn dân tộc, hồn nước, ý chí giành độc lập không còn thì sẽ mất hết: Đất nước sẽ vĩnh viễn trở thành quận huyện của ngoại bang; dân tộc sẽ trở thành một bộ phận thiểu số của ngoại bang. Trường hợp điển hình là đầu óc của dân Bách Việt ở miền Nam sông Dương Tử đã bị Hán hóa nên đất nước của họ đã bị xoá trên bản đồ thế giới. Ngay cả nhà đại trí thức Tôn Dật Tiên cũng quên nguồn gốc của mình là dân Bách Việt ở vùng Quảng Đông. Cho nên dù ông ta đã thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại –đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh- cũng chỉ là làm công không cho tộc Hoa Hán. Phải chăng chỉ vì muốn được cái hư danh quốc phụ của tộc Hoa Hán mà quên đi thân phận dân tộc ông? Còn đối với truyền thống hào hùngcủa tộc Lạc Việt thì lại là “làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.
Dân tộc nào bị thống trị trực tiếp hay gián tiếp mà chịu ảnh hưởng sâu đậm của sách lược xóa bỏ tinh thần dân tộc, làm mất đi dân tộc tính và hồn nước là dân tộc đó đang rơi vào tệ trạng dân tộc nạn. Hiện nay các quan thái thú -thân Việt-óc Tàu- trong Bộ Chính trị và trong chính phủ của VN đã và đang tạo môi trường thuận lợi để CS Trung Hoa thực hiện mưu đồ Hán hóa dân tộc Việt Nam. Nói khác đi, người Việt đang gặp đại họa: dân tộc nạn.
Bình tâm và chịu khó động não với cái nhìn nhạy bén, chúng ta sẽ nhận thấy Trung Hoa đang xâm lăng Việt Nam bằng cuộc xâm lược không tiếng súng. Cuộc xâm lược trong hòa bình (! ) đang diễn ra hàng ngày trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, giáo dục, tư tưởng và văn hóa: một cuộc chiến tranh toàn diện.

Lũng Đoạn Kinh Tế Việt Nam
Trung Hoa càng ngày càng gia tăng việc dùng hàng hóa trao đổi ở biên giới Việt-Trung. Một mặt để thu phục nhân tâm, các sắc dân có quan hệ thân thuộc với dân của họ ở vùng biên giới. Mặt khác để thu hút nguyên liệu với giá rẻ như kim loại màu, kim loại quí, đá quí, gỗ quí, thú quí, dược liệu quí v.v... và v.v...
Tình trạng buôn lậu trầm trọng ở biên giới Việt-Trung được sự tiếp tay của các quan chức tham nhũng của chế độ Hà Nội là mối nguy có thể làm cho nền kinh Việt Nam bị phá sản. Hiện nay có thể nói hàng hóa Trung Hoa, nhất là hàng lậu, đã và đang độc chiếm thị trường Việt Nam. Vật dụng dùng trong cuộc sống hàng ngày do Trung Hoa chế tạo từ xe đạp, bình thủy, bàn ủi, kim may v.v... và v.v... đến vật dụng nhà bếp tràn ngập từ thành thị đến thôn quê; nhà nhà đều dùng vật dụng do Trung Hoa sản xuất.
Tình trạng này dần dần sẽ bóp nghẹt các ngành sản xuất trong nước. Đó là chưa kể những mánh mung đút lót các viên chức tham nhũng của chính quyền để nắm lấy các cơ sở sản xuất, các mối đầu tư béo bở ngon ăn. Lối lũng đoạn kinh tế như thế là cách xâm lược trong hoà bình. Rất nguy hiểm.

Biển Đông Dậy Sóng Cửu Long Cạn Dòng
Một thủ đoạn vô cùng hiểm ác nữa là: Trung Hoa đã và đang đơn phương thực hiện dự án với kế hoạch xây một chuỗi 14 đập ở thượng nguồn sông Mêkông . Họ đã thực hiện xong 6 đập lớn ngăn sông Mêkong tạo thành những hồ chứa nước khổng lồ để làm thủy điện cho vùng Vân Nam. Đó là các đập Manwan, Bashaoshan, Jinghong, Xiaowan, Naguzadu, và Mengsong. Việc làm của Trung Hoa kéo theo Thái Lan; nước này đang xây đập Pakmun với ý định chuyển 8 tỷ thước khối nước tuới cho vùng sa mạc Đông bắc.
Rồi Lào cũng đang dự tính ngăn những sông nhánh của Mê Kông như Nam Ngum, Nam Tbuen, Nam Leuk và Honay Ho để làm thủy điện. Việc Trung Hoa ngăn đập tạo hồ lớn ở thượng nguồn Mêkong sẽ gây ra những hậu quả nguy hại cho dân Lào, Kampuchea và đặc biệt là dân Việt Nam, nước ở cuối nguồn. Đây là một đại họa rất lớn trực tiếp đe dọa sự sống còn của dân tộc Việt Nam. Rồi đây dân miền Nam Việt Nam sẽ mất nguồn phù sa bón ruộng, mất nguồn thủy sản để sinh sống. Mặt khác, nước biển sẽ tràn ngập đồng
ruộng vùng đồng bằng sông Cửu Long và từ từ nhận chìm cả vùng Cà Mau và vùng duyên hải Nam Việt Nam. Trong tương lai khi cần đánh phá mạnh, Trung Hoa ngăn hẳn nước của các hồ nước lại thì dân ta đặc biệt là dân miền Nam Việt Nam sẽ dở sống dở chết; họ tháo nước ra một lúc thì dân ta cũng điêu đứng.
Chuỗi đập đó có khả năng chặn giữ khoảng 120 tấn phù sa hàng năm trên các hồ chứa và đổ hàng trăm ngàn tấn chất thải từ kỹ nghệ Vân Nam xưống hạ nguồn. Mặt khác, nước biển sẽ xâm nhập sâu vào đồng bằng sông Cửu Long, sẽ không còn phù sa mầu mỡ bón ruộng cho miền Nam.
Tiến sĩ Vũ Tiến Ca dùng mô hình toán để nghiên cứu về phù sa sông Mê Kông tại Đại học Sattama Nhật Bản cho rằng sự thất thoát phù sa sẽ là điều cực kỳ nguy hại cho đồng bằng sông Cửu Long. Vựa lúa an toàn nuôi dân tộc Việt Nam và ngư nghiệp duyên hải miền hải sẽ bị đe dọa trực tiếp nếu dòng sông mẹ bị khai thác toàn diện từ thượng nguồn trở xuống theo các hoạch định trên của Trung Hoa. Hơn nữa sự thiếu hụt phù sa tại đồng bằng sông Cửu Long sẽ không bù đắp nổi quá trình sụp lún.

Mặt trận Văn hóa
Hiện nay thủ đọan thâm độc nhất của Tàu Cộng là mưu đồ thực hiện sách lược đồng hóa dân tộc Việt Nam vào dân tộc Tàu qua mặt trận văn hóa như họ đã Hoa hóa các tộc Bách Việt ở miền Nam sông Dương Tử.
Mã Viện: tướng Tàu (70 tuổi) nham hiểm thủ đoạn phá hủy trống đồng và xóa bỏ luật lệ Việt, áp dụng luật Tàu trên đất Việt. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị thất bại năm 43 sau Tây lịch, hàng trăm thủ lãnh, hàng nghìn nghĩa quân đã bị Mã Viện tàn sát. Hơn 300 thủ lĩnh bị bắt đài sang Kim Lăng (Hồ Nam). Mã Viện tâu với vua Hán Luật Việt và Luật Hán khác nhau hơn 10 điểm và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt. Cùng với việc thủ tiêu chế độ Lạc tướng, việc bãi bỏ pháp luật của người Việt và phá hủy trống đồng (biểu tượng cho uy quyền của Lạc tướng) nằm trong âm mưu của các nhà lãnh đạo phương Bắc muốn biến Việt Nam hoàn toàn trở thành châu, quận, huyện do Trung Hoa trực tiếp cai trị.
Thực dân Văn hóa: Nhâm Diên- Tích Quang- Sĩ Nhiếp- Nhâm diên, Tích Quang xóa bỏ truyền thống, phong tục tập quán, lễ nghĩa Việt và cưỡng ép người Việt sống theo khuôn mẫu lễ nghĩa của Tàu. Sĩ Nhiếp tích cực truyền bá Hán học ở Việt Nam với ý đồ xóa sạch văn hóa Việt, mà văn hóa là nếp sống, cách ăn-mặc-ở, lối ứng xử, cách suy nghĩ v.v...,tâm Việt Hồn Việt.
Minh Thành Tổ: vua Tàu chủ trương xóa bỏ tận gốc tộc Bách Việt – đốt sách- bắt nhân tài Việt đem về Tàu.

Gần đây trong một đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ ( vua nhà Minh) gởi cho Chu Năng, tướng chỉ huy đoàn quân xâm lăng đã minh chứng ý đồ xóa sạch văn hóa Việt của giới lãnh đạo phương Bắc. Đạo sác chỉ đề ngày 21 tháng 8 năm 1406 (theo Kiều thư của Lý Văn Phượng năm 1540) đã ra lệnh cho toàn thể binh lính Tàu vào đất Việt là đốt sạch mọi sách vỡ, văn tự do người Việt Nam viết, kể cả sách dạy trẻ em, một mảnh một chữ cũng không được để lại. Những đống lửa khổng lồ cháy suốt trong hai năm với mưu đồ xóa bỏ tận gốc rễ văn hóa Việt . Điều đó cho thấy cuộc Nam xâm lần này với hơn 800 ngàn người Tàu (binh lính và phu binh) không phải chỉ là một cuộc xâm lăng thuần túy quân sự mà nhà Minh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lăng để đồng hóa. Cuộc xâm lăng với mục đích chính là xóa sạch nòi giống Bách Việt trên bản đồ thế giới. Nhưng người Tàu hoàn toàn thất bại. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã lãnh đạo toàn dân đứng dậy đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước.
Là Người Việt Nam, chúng ta phải tự hào về dòng Lạc Việt – tiền thân của dân tộc Việt Nam, nòi giống Bách Việt duy nhất còn tồn tại trên thế giới.

Người Việt Óc Tàu
Cuối đời Trần nhất là từ đời hậu Lê về sau, trí thức khoa bảng Việt Nam quá đề cao Nho giáo. Đó là thời kỳ Nho giáo độc tôn ở nước ta. Cho nên giới sĩ phu Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Tàu. Một khi đầu óc của giới trí thức khoa bảng đã thấm nhuần văn hóa Tàu thì họ quên mình đang sống trong môi trường thiên nhiên Việt Nam.Những câu thơ tả cảnh mùa thu chẳng hạn, từ đời Lê về sau chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hóa Tàu. Mùa thu trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự là mùa thu của Đỗ Phũ trên đất Tàu: “Lác đác rừng phong hạt móc sa”, “ngàn lau hiu hắt khi thu mờ”. Mùa thu của Nguyễn Du cũng thế: “Rừng phong khi lá rũ vàng”. Ngoại trừ Nguyễn Khuyến sống trong lòng nông thôn mới có thể tái tạo một mùa thu với một tâm hồn Việt, thuần túy Việt Nam (xem Thu Vịnh, Thu Điếu). Hồ Quý Ly, người có cái nhìn độc đáo về văn hóa Việt và đã phê bình nhiều nhà Nho, từ Khổng Tử đến Chu-Trình mà đầu óc cũng bị điều kiện hóa bởi văn hóa Tàu: Lễ nhạc nhu tiền Hán, y quan giống thịnh Đường được coi là tiêu chuẩn của một nước văn hiến.
Hầu hết trí thức khoa bảng và các quan trong triều từ cuối đời Trần về sau đều có khuynh hướng muốn cải biến văn hóa Việt theo văn hóa Tàu. Họ luôn luôn làm áp lực nhà vua tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Tàu. Vua Trần Minh Tông phải phản đối: Nước ta đã có phép tắc nhất định; vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau (Đại Việt Sử ký Toàn thư, bản kỷ quyểnVII. Sự việc chép vào năm 1357). Vua Nghệ Tông cũng đã phát biểu: Triều đình dựng nước, tự có phép độâ riêng, không theo chế độ nhà Tống là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau (như trên sự việc chếp vào năm 1370).
Đến nhà Nguyễn thì hoàn toàn nô lệ Tống Nho thanh nho từ hình thức (cách ăn mặc, luật pháp, tổ chức hậu v.v...) đến tư tưởng. Tất cả đêu lấy Trung Hoa làm tiêu chuẩn.

Lủy tre làng bảo vệ Văn hóa Việt

Rất may sau lủy tre làng, với truyền thống “đất của vua, chùa của làng”, “phép vua thua lệ làng”, nên nông dân Việt vẫn giữ được truyền thống dân tộc, tức vẫn giữ lối sống, phong tục tập quán, tâm Việt hồn Việt. Bản sắc văn hóa Việt là văn hóa xóm làng tức tức văn hóa dân gian, văn hóa truyền miệng nếu không muốn nói là văn hóa vô ngôn, chứ không phải là văn hóa trọng hình thức, văn hóa chữ nghĩa như văn hóa Tàu hay Tây phương.
Chính vì thế, mặc dù VN đã và đang phá “lủy tre làng” ở một vài phương diện về hình thức nào đó, nhưng cái gốc của văn hóa Việt vẫn không bị trốc rẽ. Tuy sự thật cây văn hóa Việt Nam đã bị trụi cành khá nhiều, bị và được lắp ghép nhiều cành nhánh mới, nhưng ở nông thôn văn hóa Việt, tức nếp sống, cách ăn-mặc-ở, lối ứng xử, cách xưng hô theo truyền thống Việt Nam v.v.. vẫn được duy trì. Người Việt vẫn là người Việt chất phác hiền lương, chứ không bị Nga hóa hay Tây hóa hoặc Hoa hóa như cán bộ VN và trí thức ở thành thị.

Tiếp tay Tàu Cộng: “cỗng rắn cắn gà nhà”
CSTQ và các quan thái thú, thứ sử gốc Việt đang nặn óc tìm cách thực hiện chánh sách đồng hóa dân tộc Việt vào dân Tàu. Kế hoạch thành công thì bất chiến tự nhiên thành: Việt Nam sẽ vĩnh viễn trở thành quận huyện của Tàu. Hồ Cẩm Đào và tập đoàn của ông ta đang phục hoạt tư tưởng của Khổng Tử với mục đích “bình thiên hạ”, tức thực hiện chủ nghĩa bành trướng để dẹp yên thiên hạ trên toàn thế giới như đã dẹp yên những tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử, với ý đồ thay thế vai trò của Mỹ trong chủ trương toàn cầu hóa hiện nay.

Đi tìm Văn hóa dân tộc Việt Nam ở đâu đó bên Tàu
Đầu năm 2005, Hà Nội họp sơ bộ về triết học để chuẩn bị tổ chức hội nghị triết học Đông phương với chủ đề chính là triết thuyết của Khổng Tử. Giáo sư Trần văn Đoàn sẽ là một trong những cột trụ của hội nghị triết học Đông phương nói trên tại Hà Nội. Giáo sư là một linh mục cởi áo dòng, lấy vợ Tàu, hiện là chính giáo của môn lịch sử triết học Tây phương tại Đại học quốc gia Đài Loan và kiêm nhiệm LOKUNG Chair of Phylosophy tại Đại học Phụ Nhân Trung Hoa. Ông từng là thỉnh giảng tại nhiều đại học Âu, Mỹ và châu Á như Louvain, Vienna, Oxford, Kyoto, London, Phụ Nhân và Bắc Kinh. Giáo sư là một trong những trí thức Việt Nam chủ trương tìm nguồn gốc văn hóa Việt tận bên Tàu, trong sách của Khổng Tử và Mạnh Tử, tức đạo Việt nằm trong TỬ VIẾT, trong Ngũ Kinh và Tứ Thư của Tàu. Giáo sư trình bày quá trình biến hóa từ Việt nho sang Việt triết trong Luận tập 2 trong bộ Việt Triết Luận của ông ta. Khuynh hướng này xác định rằng muốn tìm hiểu văn hóa Việt, nếu bỏ Nho thì ta chỉ thấy ngọn chứ chưa đến gốc văn hóa Việt vì Nho giáo chứa đựng những hằng số của văn minh nước ta.
Nếu Khổng Tử nói: Ngộ thuật nhi bất trước (ta chỉ ghi lại mà không sáng tác) là thật lòng (?!) Nghĩa là ông ta đem tư tưởng của thánh hiền hoặc văn hóa của tộc Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà cho đời sau, chứ ông ta chẳng hề sáng tác. Nếu đúng như vậy thì đặc tính của nền văn hóa mà ông ta thuật lại trong sách chỉ là nếp sống, cách suy nghĩ, phông tục tập quán, lối ứng xử v.v... của các tộc Bách Việt sinh sống ở phía Nam sông Hoàng Hà và cùng lắm gồm cả các tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đến tận Quảng Đông và Quảng Tây chứ không phải là văn hóa của cư dân Hòa Bình (tiền thân của dân tộc Việt Nam) và cư dân sống ở châu thổ sông Hồng.
Xuyên qua lịch sử, chúng ta nhận thấy Khổng Tử và Mạnh Tử chưa bao giờ đến bờ Nam sông Dương Tử. Như vậy hai ông thánh của Trung Hoa gốc du mục chỉ ghi lại nếp sống, cách nghĩ, cung cách ứng xử của các tộc Bách Việt sống trên đất Tàu. Đó là những điều hai ông nghe kẻ lại chứ không phải mắt thấy tai nghe tại chỗ. Xét cho cùng cái văn hóa chỉ là cái tự nhiên, được thích ứng và biến đổi bởi con người để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người (Trần Quốc Vượng –Văn Hóa việt Nam tr. 71). Nói cách khác, nếp sống, cách nghĩ, lối ứng xử v.v... thay đổi theo môi trường sống. Cho nên ngay trên cùng một đất nước đặc tính của văn minh sông Hồng và đặc tính của văn minh sông Cửu Long cũng có những điểm khác nhau: Chén nước mắm của miền Bắc khác với chén nước mắm của người miền Nam. Các món ăn (bún thang, bún mộc, mắm ruột, mắm đầu cá lóc, hến xúc bánh tráng, canh chua rau nhúc v.v...) của người miền Bắc và người miền Nam Việt Nam còn có những điểm khác nhau thì sao lại có thể đi tìm nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt Nam tận bên Tàu trong Tứ thư Ngũ kinh (sẽ trình bày chi tiết trong dịp khác).
Nói cách khác, hai ông thánh nói trên –Khổng Tử và Mạnh Tử- không biết gì về cách sống, cách ăn-mặc-ở, cách suy nghĩ, lối ứng xử v.v... của những những người nông dân trồng lúa nước ở Hoà Bình (Việt Nam). Người dân Hòa Bình đã thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước, từ sáu đến bảy ngàn năm trước đây. Như vậy, văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa trồng lúa nước ổn định lâu đời ở đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Tóm lại có thể nói đi tìm nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong Tứ Thư Ngũ Kinh, ở văn minh Hoàng Hà hay ngay cả văn minh Dương Tử giang thì sẽ chỉ thấy được TU-TỀ-TRỊ-BÌNH ¾thích hợp cho giới thống trị du mục phương Bắc, không thích hợp cho người nông dân Việt¾ chứ không thể bắt gặp được tinh hoa của văn minh sông Hồng (học ăn, học nói, học gói, học mở) bắt nguồn từ văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước.
Là người Việt Nam chúng ta cần thận trọng trong mặt trận văn hóa hiện nay giữa Trung Quốc và dân tộc Việt Nam. Cuộc chiến đang diễn ra vô cùng khốc liệt vì gián điệp văn hóa Tàu có mặt khắp nơi và khó phân biệt địch và bạn. Hơn nữa VN lại tạo môi trường thuận lợi cho Tàu Cộng thực hiện mọi kế hoạch trong trận chiến này.

Ảnh hưởng Văn hóa Trung Hoa
Aûnh hưởng của văn hóa Trung Hoa có mặt khắp nơi qua mọi sinh hoạt: Du lịch, thương mại, băng nhạc kịch, phim ảnh, dưỡng sinh, báo chí sách vở v.v... Tình báo và gián điệp Trung Cộng dưới dạng du khách và thương gia.
Theo ước lượng của một giới chức Bộ Công an Hà Nội thì trong năm 2003, ít nhất có vào khoảng từ 100 đến 150 ngàn người Tàu vượt biên giới qua Việt Nam làm ăn và du lịch. Họ vào tận Sàigòn. Một số lấy vợ Việt. Theo nguồn tin nói trên từ năm 1999 đến nay chính quyền Hà Nội không còn có thể kiểm soát được biên giới Việt Trung.
Người Hoa thường trực ở Việt Nam dưới dạng du khách và thương gia. Họ tiếp tục vào Việt Nam, không ồ ạt mà vào lẻ tẻ từ từ, nhưng liên tục, tích lủy lại người Hoa có mặt tại Việt Nam từ 1 triệu đến 1,5 triệu. Di dân người Tàu đang là một đe doạ khủng khiếp cho Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Đó là đạo quân thừ năm vô cùng nguy hiểm, phát triển đồng bộ với cuộc Nam tiến lấn đất ở biên giới Việt Trung, giành dầu ở Biển Đông và bao vây ở biên giới Việt Lào. Chính phủ Lào đã để cho người Tàu khai khẩn đất đai ở vùng biên giới Lào Việt.

Điều vô cùng nguy hiểm là nhiều người Việt phục vụ cho đoàn quân thứ năm của Trung Cộng: một số vì củng cố quyền lực và quyền lợi; một số trí thức thức khoa bảng vì thiếu cảnh giác đã vô tình tiếp tay phục vụ đắc lực (phổ biến sâu rộng văn hóa Trung Hoa) trong mặt trận văn hóa đang diễn ra vô cùng ác liệt giữa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc Băng nhạc kịch. Người Việt Nam nào có khứu giác nhạy bén sẽ cảm nhận được mùi “xì dầu, mùi Tàu” bay khắp phòng trong lúc xem các băng nhạc kịch. như vậy mùi Tàu ảnh hưởng đến hàng triệu bộ óc của người Việt trong nước cũng như hải ngoại. Phải chăng những người điều khiển chương trình băng nhạc kịch đã bị Tàu Công mua chuộc rồi sao? Có cần thiết phảiû miệt thị tổ tiên, bóp mép lịch sử, làm mất hào khí của dân tộc để kiếm ăn hay không?

Dưỡng sinh
Một số trí thức người Mỹ, người Pháp gốc Việt v.v... phổ biến khí công, hương công, thái cực quyền mà cho rằng phát huy văn hóa dân tộc. Có lẽ nói phát huy văn hóa Trung Hoa hay tinh hoa văn hóa phương Đông hoặc gì đó thì ổn hơn. Một số khác tích cực phát triển Pháp Luân Công. Người chủ trương cho rằng đây là một pháp tu luyện tối cao các đặc tính của vũ trụ: Chân thiện nhẫn. Pháp luân đại pháp là một phương pháp tu luyện tầng cao của Phật pháp.
Theo Lý Hồng Chí thì pháp do Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng cách nay 2500 năm chỉ "nhằm cho người ở trình độ rất thấp; những người vừa mới ra khỏi tình trạng xã hội phôi thai và có một tâm ý rất đơn sơ. Người ngày nay không còn có thể tu luyện bằng pháp đó. Vào thời mạt pháp cả những vị sư trong chùa còn có nhiều khó khăn để tự cứu độ làm sao họ có thể cứu độ người khác?" (Lý Hồng Chí –Chuyển Pháp Luân tr. 12) Đó là cái tập quán lấy của người (Ấn Độ) làm của mình (Tàu) với cái tính tự cao tự đại và óc độc tôn độc hữu gốc du mục.

Phong trào học tiếng Tàu
Hiện nay phong trào học tiếng Tàu với giọng Bắc Kinh đang lên cao độ và hiện tượng dịch sách Tàu để phổ biến văn hóa Trung Hoa khắp hang cùng ngõ hẻm. Trên kệ sách đa số là sản phẩm của Trung Hoa được chuyển ngữ, từ 10 đại hoàng đế Trung Hoa, 10 mưu lược gia Trung Hoa, hệ thống phạm trù lý học... đến triết học Trung Hoa (đạotâm- nhẫn).

“Hòa” theo kiểu Tàu
Một số sách ca ngợi dân tộc Trung Hoa là dân tộc thượng hòa. Giáo sư Tiến sĩ Triết học Trần Chí Lương, người Trung Hoa đã viết: “Dân tộc Trung Hoa là dân tộc thượng hòa (coi trọng hòa). Năng lực thượng hòa sẽ kết nhiều quả ngọt trong thế kỷ 21... Đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa”. Có thật dân tộc Trung Hoa là dân tộc coi trọng hòa không?
Ngày xưa người Trung Hoa đã “hòa” hết đất đai của các tộc Bách Việt từ phía Nam sông Hoàng Hà đến Quảng Đông Quảng Tây. Ngày nay họ đang “hòa” ở Tây Tạng, Tân Cương và vùng biên giới Việt-Trung. Họ đã và đang “hòa” với dân tộc Việt Nam ở Biển Đông (Trường Sa và Hoàng Sa). Ngày 8 tháng 1 năm 2005 Trung Hoa đã cho thế giới thấy dân tộc Tàu là dân tộc coi trọng “hòa” bằng cách nổ súng tấn công bắn chết 9 ngư dân Việt vô tội một cách trắng trợn, tàn bạo, dã man của kẻ mạnh. Rồi lại chụp mũ những ngư dân vô tội đó là hải tặc.
Thực tế đã dạy cho dân tộc Việt Nam đừng tin những gì các ông thánh Trung Hoa nói –đức nhân, đức trung và thứ, chính danh định phận, đạo trung, nhân trị, hòa v.v...- hãy nhìn cách hành xử của người Trung Hoa từ ngàn xưa đến nay.

Vinh Nhu