vendredi 26 février 2016

BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG TOÀN TẬP






2009/9/14 <chinhnghia@aol.com>


BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG TOÀN TẬP
 

Kính diễn đàn


Thành tích của nhóm Ấn Quang là thành tích của một tập đoàn lợi dụng tôn giáo, sống trong lòng chế độ VNCH nhưng đồng hành với Cộng Sản để gây rối loạn xã hội, tự nguyện làm con dao dâm vào lưng thể chế VNCH. Thành tích của đám trọc theo cộng này là : Vụ Biến loạn miền Trung 1966, vụ thảm sát Mậu Thân 1968 quàng giải khăn sô lên đất Huế và bao nhiêu âm mưu thâm độc khác.

Hiện nay toàn bộ tác phẩm "Biến Động Miền Trung" đã được quảng bá trên
 www.chinhnghia.com chia làm 17 đoạn theo các links dưới đây, đồng thời đang đăng tải trên tuần báo Chính Nghĩa tại Atlanta từ số 541 đến n ay 550 chưa chấm dứt. Quý vi hữu có thể vào xem để hiểu rõ sự thật của một giai đoạn lịch sử.

Kim Âu

(Trích) Biến Động Miền Trung


Tôi kết thúc loạt bài này đúng vào ngày 24 tháng 4 năm 2008. Chỉ còn 6 ngày nữa là 30 tháng 4, tính trọn đúng 33 năm miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản miền Bắc. Nhiều tài liệu, nhiều sách vở đã nói đến những đau thương, nhọc nhằn, tủi hận của 17 triệu dân chúng miền Nam. Kẻ ở lại, người vượt thoát ra nước ngoài, và nhất là gần một triệu Quân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hoà đã bị Việt cộng trả thù, hành hạ, thủ tiêu, trong các trại tù của cộïng sản Việt Nam sau ngày 30 th ng 4 năm 1975.

Nhưng với những biến cố xảy ra tại Huế từ 1966 đến 1972 ít được đề cấp đến. Là một người, nếu nói là chứng nhân trong giai đoạn đó tại Huế thì quá lớn lao, điều đó tôi không dám nhận, nhưng ít nhất trong một khoảng thời gian dài từ 1966-1975, thời gian của những xáo trộn chính trị, của những kinh hoàng đẫm máu Mậu Thân, và của cơn biển lửa mùa hè 1972, tôi đã có mặt và trong trách nhiệm của một nhân viên công lực, trách nhiệm của một Phó Trưởng Ty Cảnh sát Đặc biệt Thừa Thiên-Huế, trong biến động miền Trung năm 1966. Phó Trưởng ty CSĐB, kiêm Quận Trưởng quận III Thị xã Huế, trong thời gian biến cố Tết Mậu Thân 1968. Và trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên-Huế trong trận đánh mùa hè đỏ lửa 1972.

Với nhiệm vụ được giao phó : Duy trì luật pháp quốc gia, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào tại Thừa Thiên Huế, tôi đã viết lại những gì đã thấy, đã biết, đã làm, với một tấm chân tình vô tư, tôn trọng sự thật, để mai hậu, có ai muốn tìm hiểu những sự việc đã xảy ra trong giai đoạn đó tại Huế, thì ít nhất họ cũng có được một phần nhỏ nào các dữ kiện đó, với mức độ chính xác có thể chấp nhận được.

Tôi quan niệm rằng, là một kẻ đã từng có trách nhiệm trong ba biến cố đã xảy ra tại Huế, đã từng trực diện với những gì đã xảy ra trong thời gian đó, đã thấy tận mắt, nghe tận tai, nếu không nói lên sự thật, đúng sự thật, tôi sẽ là một kẻ có tội đố i với những người đã mất, và những người còn sống ngày hôm nay và đời sau.

Công bằng và công lý phải được trân trọng trả lại cho những người là nạn nhân của 3 biến cố tại Huế từ 1963-1966.

Công lý và công bằng phải được trả lại cho 5327 nạn nhân đã bị ông Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho đám sát nhân của họ ra tay giết hại trong Tết Mậu Thân 1968.

........

Những ông Đôn Hậu, Trí Quang, Thiện Siêu, Chánh Trực, Như Ý v.v. . . mà tôi đã nêu đích danh trong những loạt bài của tôi là những Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo, lợi dụng Phật giáo, lợi dụng tín đồ, lợi dụng Phật tử, để thực hiện những chỉ thị, những âm mưu của Côïng sản Việt Nam đ i với Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và quần chúng Phật tử thời bấy giờ. Họ hoàn toàn phục vụ cho âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt .
Tôi đã nêu đích danh họ, vì họ là đảng viên Cộng sản, vì họ là cơ sở Việt cộng nằm vùng của cơ quan Tình báo Chiến Lược Cộng sản Hà Nội, là cơ sở Tôn Giáo vận của cơ quan Thành ủy Việt cộng Thừa Thiên Huế, của Thành ủy viên Việt cộng Hoàng Kim Loan, vì họ lợi dụng nơi tôn nghiêm thờ phụng, chứa chấp cán bộ cộng sản, chứa chấp súng đạn, chất nổ để tấn công, sát hại dân chúng miền Nam Việt Nam.
Những chuyện đó là một sự thật không thể chối cãi, cũng không thể bóp méo.
Tôi đã nêu đích danh, vì sự thật đã phơi bày, đã lộ diện trong Tết Mậu Thân, khi ông Đôn Hậu giữ chức Phó chủ tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ, Dân Tộc, Hòa Bình, một tổ chức được thành lập theo chỉ thị của ông Hồ chí Minh và Bộ chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ thị đó đã được Bộ Chính trị gởi cho Trần văn Quang Tư Lệnh Mặt Trận Trị Thiên vào ngày 21/1/1968 trước trận tấn công Mậu Thân tại Huế.
Khi Việt Cộng chiếm Huế, lá cờ mà bọn Việt cộng treo trên kỳ đài Ngọ Môn tại Huế vào sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân không phải là cờ của bọn Mặt trận Giải phóng Miền Nam, mà là cờ của Lực lượng Liên Minh , cờ của tổ chức mà ông Đôn Hậu làm Phó chủ tịch.
Gần 10 ngàn quân Cộng sản Bắc Việt, và đám cơ sở Việt cộng phục vụ và nhân danh lá cB đó trong 26 ngày đau thương tại Huế, bọn chúng đã giết hại biết bao nhiêu thường dân vô tội, người Email có biết không?
Tôi nhắc lại : 5327 người bị giết và hơn 1200 mất tích.
Tôi nêu đích danh vì ông Đôn Hậu là thành viên Mặt trận Giải Phóng miền Nam 1968.
Là ủy viên Hội Đồng Cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam vào tháng 6/1968. Là Đại Biểu Quốc Hội khoá VI của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghiõa Việt Nam.
Ủy Viên, Đoàn chủ Tịch ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc.
Tôi nêu đích danh Thích Thiẹân Siêu vì hắn là đảng viên cộng sản, cơ sở tối quan trọng của Hoàng Kim Loan Thành Ủy viên Việt cộng.
Và sau 1975 người Email có biết Thích Thiện Siêu làm gì không?
Hắn là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp 3 khóa:
Khóa 8 , 9 và khoá 10 của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Năm 1995, Thích Thiện Siêu là thành viên của phái đoàn quốc hội của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với chủ tịch quốc hội là Nông Đức Mạnh [ Bây giờ năm 2008 là Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam] đi thăm một số quốc gia và thăm viếng một số Nghị viện ở Âu Châu.
Năm 2000, chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng Huân chương Độc Lập hạng II cho Thích Thiện Siêu.
Người Email, nếu còn thắc mắc xin về Việt Nam, về Huế, để phối kiểm lại hàng giáo phẩm Phật giáo của ông.
Tôi xin nói lại với ông một lần nữa: Hàng giáo phẩm Phật giáo đó là của ông và của nhà nước cộng sản Việt Nam, chứ không phải của=2 0tôi và của đa số Phật giáo đồ chân chính .
Tóm lại, tôi nêu đích danh họ vì tôi có đủ bằng chứng, qua tin tức tình báo xâm nhập, qua hồ sơ tài liệu, qua cung từ của các cán bộ Việt cộng mà chúng tôi đã bắt, và qua sự thật đã phơi bày sau năm 1975.
Tôi nói cho người Email biết một cách rõ ràng rằng, hàng Giáo Phẩm của tôi là:
Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.
Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang.
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
Là Chú của tôi, Đại lão Hoà Thượng Thích Chơn Trí.
Là Anh của tôi, Đại Lão Hoà thượng Thích Chơn Kim......
Và cuối cùng hàng giáo phẩm Phật giáo của tôi và của gần 80 phần trăm các Phật tử, trong 82 triệu đồng bào Việt Nam, là các bậc chân tu trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Th ng Nhất, họ hiện đang bị đàn áp, tù đày, ngăn cấm không được hành đạo, tu hành tại Việt Nam hiện nay, chứ không phải loại Phật giáo quốc doanh do Ban Tôn Giáo của Mặt trận Tổ quốc của đảng Côïng sản Việt Nam khai sinh và nuôi dưỡng để lũng loạn Phật giáo.
Như vậy cũng đã quá đủ, từ nay tôi không còn muốn tranh luận với ông nữa, người Email.
Ngoài ra để sau này những ai muốn truy cập thêm những thành phần trí thức, giáo sư, sinh viên tham gia hoạt động trong cả 4 lần biến động tại Huế từ :
- 1963 đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm
- 1966 tranh đấu của Phật giáo miền Trung
- 1968 biến cố Mậu Thân
có thêm một số tư liệu, dữ kiện về bọn chúng, tôi xin sắp xếp và phân loại như sau:
1- 1963 những thành phần sinh viên tham dự vào cuBc tranh đấu cùng Phật giáo lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
- Nguyễn Thiết, sinh viên Luật Khoa, thoát ly năm 1965. Phụ trách thanh niên Thành ủy Huế. Chủ tịch chính quyền cách mạng Quận II trong Mậu Thân, bị bắn chết vào ngày 3 Tết.
- Lê Minh Trường, sinh viên Mỹ Thuật, cán bộ thuộc Thành ủy Huế. Năm 1969 bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, gần Điện Hòn Chén thuộc Quận Nam Hòa.
- Vĩnh Kha, sinh viên Văn Khoa. Chủ tịch Tổng hội Sinh Viên Huế. Trưởng đoàn Sinh Viên Phật Tử. Đã chết năm 1980.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài gòn, sau này là giáo sư Việt Văn trường Quốc Học. Thoát ly lên mật khu vào tháng 6 năm 1966. Hiện sống ở Huế và là một nhà văn.
- Hoàng Phủ Ngọc Phan, sinh viên Y khoa. Thoát ly lA An mật khu tháng 6/1966. hiện là nhà báo.
- Nguyễn Đính, sinh viên Văn Khoa. Làm thơ bút hiệu Trần Vàng Sao. Thoát ly năm 1965. Hiện sống ở Vỹ Dạ.
- Phạm Thị Xuân Quế, sinh viên Y Khoa. Sau 1975 Chủ tịch Hội phụ nữ Thành phố Huế .
- Thái thị Ngọc Dư, sau này du học tại Pháp đậu Tiến sĩ Địa lý học. Giáo sư Đại Học Quốc Gia thành phố hcm Sàigòn. Đã về hưu, hiện sống tại Sàigòn
-Trần Anh Tuấn, sinh viên. Du học Mỹ, đậu Tiến sĩ Luật, hiện là Luật sư tại Sàigòn.
- Hoàng văn Giàu, Phụ khảo Đại học Văn khoa Huế. Đoàn trưởng đoàn sinh viên Phật tử Huế. Sau 1975 định cư tại Úc Châu.
-Thái thị Kim Lan, sinh viên. Du học Đức đậu Tiến sĩ Triết Học. Hiện sống tại Đức.
-Tôn Nữ Quỳnh Tư, sinh viên văn khoa, sau du học tại Pháp, đậu Tiến sĩ.
- Nguyễn Đắc Xuân, sinh viên Văn Khoa, Đại học Sư Phạm. Tham gia hoạt động vào tháng 3/1963, hiện làm báo tại Sàigòn .
2- Thành phần sinh viên, học sinh tham gia tranh đấu biến động Miềân Trung 1966 :
- Đặng văn Sở, sinh viên Đại học Sư Phạm Anh văn. Thoát ly năm 1968 . Hiện ở Đà Nẵng Viẹât Nam
- Huỳnh Sơn Trà, sinh viên Y khoa. Thoát ly 1968. Đã chết .
- Lê thanh Xuân, sinh viên Luật, thoát ly 1968. Hiện tại là nhà báo, viết cho tờ “Sàigòn Giải Phóng”, bút hiệu Hải Nam.
- Nguyễn Hữu Ngô, sinh viên Mỹ Thuật, hiện sống ở Huế. Làm nghề vẽ tranh.
- Hồ Cư, sinh viên văn khoa, hiện dạy học ở Đà Nẵng
- Nguyễn Văn Quang, học sinh, thoát ly năm 1966, hiện là Bí thư Thành ủy Huế.
- Trần Hoài, sinh viên Đại học sư phạm Việt Hán, thoát ly năm 1972. Hiện là Thường vụ Thành ủy Huế, ch=E 1 tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc thành Phố Huế .
- Tôn Thất Kỳ, sinh viên Y Khoa, Chủ tịch mặt Trận Nhân Dân tranh thủ Hòa bình.
- Nguyễn Hữu Giao, sinh viên Luật Khoa. Chủ tịch Mặt trận Sinh viên tranh thủ Dân Chủ.
- Nguyễn Đắc Xuân, trưởng đoàn sinh viên quyết tử, tổ chức thành 3 Đại Đội, khoảng gần 1 ngàn đoàn viên. Nguyễn Đắc Xuân thoát ly ra mật khu vào tháng 7/1966.

hết trích

Toàn bộ tác phẩm Biến Động Miền Trung được quảng bá qua www.chinhnghia.com chia làm 17 đoạn theo các links dưới đây, đồng thời đang đăng tải trên tuần báo Chính Nghĩa tại Atlanta từ số 541 đến nay 550 chưa chấm dứt
You chose to allow thaoluan9@yahoogroups.com even though this message failed authentication
Click to disallow
 
  Giáo sư Nguyễn văn Canh , Phụ tá Tổng trưởng Chiêu Hồi 
 , thầy đở đầu tôi ở Đại học , còn sống đang ở San Jose.

Thưa ông Mai Văn Toản, có phải GS Nguyễn Văn Canh là người này không?

-- Giáo sư Nguyễn văn Canh
Giảng dạy chính trị học và luật hBc ở
các đại học miền nam trước 1975.
Đã xuất bản một số sách, trong đó
có quyển 1&2 "Cộng Sản Trên Đất Việt".
Học giả Viện Nghiên Cứu Hoover
đại học Stanford University về
Chiến Tranh Cách Mạng và Hòa Bình


Xin ông Mai Văn Toản cho biết
         
       Tôi , Mai văn Toản .
       Con nuôi của Ba tôi , Mai văn Nể , CSQG ,
       tùng sự Ty Cảnh sát QG / Không Hải cảng Saigòn ,
       là Trung tá CSQG Nguyễn Phước Toàn .
  &nb sp;    Cấp chỉ huy trực tiếp T/tá Liên Thành tại Nha CSQG /Đô
thành .
       Thiếu tá Liên Thành / Sĩ quan Địa Phương quân biệt phái .
       Anh vợ tôi Trung tá Lê minh Quang tự Quang râu , tùng sự 
  tại Phủ Thủ tướng , bạn thân của Đ/t Trần Minh công  , Đặc ủy
  Trung ương Tình báo .
       Em vợ tôi Trung tá Sánh Tạ , hiện đang ở Houston , tùng sự  
  tại Nha CSQG /Vùng I / Đà Nẳng .   
       Ông già vợ tôi , Lê Minh Huy , Đại tá Giám đốc Nha Công   
  binh đầu tiên / QLVNCH .
       Tôi Tuỳ viên Báo chí Tướng Đỗ Kế20Giai thuộc khối CTCT
  của Trung tá Hoàng Ngọc Liên .
       Câu chuyện của Thiếu tá Thành kể chỉ là hư cấu của quyển
  Tiểu thuyết .
       Một anh Thiếu úy Địa Phương quân mà ngành CSQG giao
  chỉ huy Năm ngàn viên chức CSQG của Thành phố Huế . ?
       Bắt được Trung tá Tình báo Bắc Việt mà không ai biết cả và  
  tuỳ nghi sử dụng .Câu chuyện kể lòng vòng những tên tuổi của
  nhóm Lê văn Hảo do Hà nội dàn dựng ai cũng biết lại do tên 
  này khai . Nên nhớ Thiếu tá Nguyễn Bé , Trung tá Tám Hà hồi   
  chánh đều được Ch1nh phủ trọng dụng thông qua Bộ Chiêu hồi.
       Giáo sư Nguyễn văn Canh , Phụ tá Tổng trưởng
  Chiêu hồi , thầy đở đầu tôi ở Đại học , còn sống đang ở San
  Jose .
       Một cái ao nhỏ Thành phố Huế như một Quận tại Đô thành
  chứa một con cá bự Việt Cộng . Ai tin . ?
      Thiếu tá Liên Thành , anh hùng Diệt Cộng hồi nào . ?
      Coi ngành CSQG chẳng ra chi . ?
      Nên nhớ Thiếu tá Liên Thành mang cấp bực giả định theo
 Chức vụ ,không phải là cấp bực thực của ngành CSQG và của
 Địa Ph0ơng quân và Nghĩa quân . 
     Khi vào Thủ Đức Thiếu tá Liên thành chỉ có Bằng Trung học
 Đệ Nhất cấp . Ra trường không mang lon Chuẩn úy . Mang lon
 Thiếu úy Địa Phương quân . Đặc biệt chỉ có một khóa mà thôi .
     Nếu đậu Tú tài I . Trong ngành CSQG chỉ đeo lon Trung úy
 Thẩm sát viên Tập sự . Thí sinh Tự do ở Huế rất dễ đậu . Dốt  
 quá mới gian lận .
      

                                Nay kính ,
                          BĐQ Mai văn Toản .
          T iểu đoàn 68 / BĐQ / Liên đoàn 11/ BĐQ .


__._,_.___

NGUỒN GỐC VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM












NGUN GC VĂN HOÁ C
      DÂN TC VIT NAM

                               


I- MIÊU TỘC (VIÊM VIỆT*) VỚI NƯỚC XÍCH THẦN VÀ XÍCH QUỸ TRÊN HAI BỜ SÔNG TRƯỜNG GIANG:

Trường giang sóng nước chập chùng,
Động Đình Văn hóa* hai vùng Bắc Nam.
Đế Minh * chia cắt giang san,
Hai con hai mẹ hai phần quân phân.
Đế Nghi lảnh nước Xích Thần*,  
Giữa hai sông lớn sông Hoàng sông Dương*. 
Phần em Lộc Tục* đảm đương,
Từ sông Dương Tử* theo đường lập quốc.
Tên Kinh Dương Vương ấy gốc
Quốc hiệu Xích Quĩ ấy mốc* thời gian.
Long Nữ con Động Đình Quân,
Cùng vầy duyên thắm cùng chàng Dương Vương
Sinh ra Sùng Lảm khác thường*,
Tài văn tài vỏ mọi đường tiến thân
Lảm xưng là Lạc Long Quân.
Hai nước vật chất tinh thần liên minh*.
Anh em đoàn kết tử sinh,
Đồng chung ý chí nghĩa tình nước non,
Đế Nghi truyền lại cho con*.
Đế Lai nối nghiệp xưng con của trời*,
Thiên Tử* là hiệu của người,
Sinh ra con gái rạng ngời Âu Cơ*,
Vừa tài vừa đẹp anh thư*,
Vì thân nên gả Âu Cơ trọn tình.
Lạc Long cưới được vợ xinh,
Lòng càng thêm mặn cái tình nghĩa huynh.
Hai nhà chí kết liên minh,
Hầu mong giữ đất ông mình* phân hai.
Xích Quĩ chính nghĩa là tài*,
Xích Thần mang nặng hình hài thần linh*,
Hai đàng kết nghĩa nhân sinh*,
Cùng chung vui sống nghĩa tình bà con.

II-  MÔNG CỔ HÁN TỘC XÂM LĂNG :

Rủi đâu tràn xuống giặc Mông*,
Đế Lai run sợ quyết lòng liên minh*.
Cùng nhau liên kết* quân binh,
Long Quân* cùng hợp chiến chinh chống thù.
Liên minh Xích Quĩ đặc thù*,
Mặt thời bôi đỏ từ từ tiến lên.
Âu Cơ hăng hái đánh liền,
Ra quân cứu nước miền quê hương nàng,
Long Quân cất vó rở ràng,
Rừng gươm núi giáo hai đàng hiệp nhau.
Đế Lai chỉ huy trận đầu,
Cùng quân Mông đánh thần sầu quỉ run.
Quân Mông sức mạnh ung dung,
Là dân du mục quen dùng chiến chinh.
Một trận TRÁC LỘC* thiên kinh,
Hoàng Giang máu thắm, sinh linh nhuộm màu,
Liên Minh Xích Quĩ thua mau,
Đế Lai tử trận Xích Thần mất toi.
Long Quân kéo chạy ôi thôi !
Chạy ra miền biển rồi trôi theo dòng…
Ra khơi thuyền tới biển đông*,
Mất tích chẵng biết chàng dông lối nào…
Âu cơ nước mắt tuôn trào!!
Mẹ con phân nửa* trở vào nước xưa*.
Một mình dựng nước sớm trưa,
Cùng bầy con cháu cho vừa lòng dân.
Nàng Âu mới thật Tổ Tông*,
Sinh ra Bách Việt rạng đông truyền dần .
Tự xưng là họ Hồng Bàng*,
Chia con cai quản xóm làng làm vua.
Các con xưng hiệu Hùng Vương,
Bao quanh vương nữ Âu Cơ an toàn.
Đặt tên là nước Văn Lang*,
Phương tây giáp Thục*, phưong nam giáp Chàm,
Phía bắc là Dương Tử Giang,
Phương đông ấy biển gọi rằng Biển Đông.
Văn Lang phong thổ huy hoàng,
Vốn dòng Bách Việt Hồng Bàng nguyên niên.
Âu Cơ làm chúa ‘Không Tên’,
Không người tưỡng đến công thiêng của nàng, 
Không người thờ cúng đàng hoàng,
Không người nhớ tới công nàng lập quốc.
Một tay dựng nước làm gốc,
Một tay gìn giữ thúc đốc vua Hùng,
Một tay chống chọi giặc Mông,
Mới sinh nước Việt oai hùng ngày nay.
Cớ sao dân Việt chua cay!
Theo Mông* chê nữ thầy lay thấp hèn*
Chẵng thờ Vương Nữ linh thiêng*
Bỏ quên Tổ Mẩu mẹ hiền nước Nam.
Bao đời chỉ nhớ phái nam*,
Hùng vương dựng nước Hiến văn bốn ngàn*.
Mổi năm có lể đàng hoàng,
Khấu đầu lạy tạ công vàng nước non,
Chỉ vì kỳ thị nữ ‘không’*,
Quên ơn nghĩa Mẹ, quên công đầu nguồn*.
Người người chỉ nhớ Hùng Vương,
Năm năm đầy đủ đèn hương cúng thường.
Nhớ chăng ai lập vua Hùng ?
Ấy công Tổ Mẩu nữ hùng Âu Cơ.
Một tay gầy dựng cơ đồ,
Làng làng chia tõ quanh đô thành miền,
Đặt con lảnh tụ liền liền,
Vua Hùng cai quản các miền Mẹ giao.
Muời tám dòng* có chí cao,
Được người xưng tụng, người nào quên ân.
Kéo dài cho đến vạn năm* ?

III- NHÀ THỤC VỚI HÁN MÔNG BÊN TÀU VÀO THỜI ĐÔNG CHU LIỆT QUỐC

Thế rồi Thục Phán* tiến lên xưng thần,
Phía nầy vốn thuộc Văn Lang,
Bị Thủy Hoàng chiếm dựng nên nhà Tần.
Tứ Xuyên Bách Việt mọi đàng,
Cùng từ Xích Quĩ dần dần chia nhau.
Vua Tần thế lực thần sầu.
Mạnh lên Thục Phán mau mau đánh liền,
Mưu cao* chiếm nhẹ trước tiên,
Thu nhanh gọn chiếm kẻo phiền Tần luôn.
Lập nên nhà Thục vuông tròn,
Lấy tên Âu Lạc, An Dương* quốc thành,
Văn Lang từ đó biến nhanh.
Thục vương kiến thiết, xây thành Cổ Loa,
Trùng tu cho nước non nhà,
Hầu mong chống đở quan qua khó lòng.

IV- NGUỒN GỐC MÔNG CỔ CỦA TÀU

Kể từ Mông Cổ làm vua,
Tự xưng Hoàng Đế trên bờ Hoàng Giang,
Từ nay sinh nước Trung Nguyên,
Vốn dòng du mục bắc nguyên* tràn vào.
Dân du mục tướng dáng cao,
Người cao ngựa mạnh lập trào đình riêng.
Đến nay giặc giả liên miên,
Suốt bao thế kỷ gọi liền Liệt Quốc
Đông Chu ấy thật gian truân,
Khiến đất Âu Lạc mất dần đất đai.
Vẩn còn chín quận an bài*.
Quân ta chống với quân Tần kém chi,
Ra sức giết được Đồ Thư*,
Giết quân xâm lượt đặng từ* vinh quang.
Nhà Tần không được thịnh an*,
Bị Lưu Bang chiếm cho an dân tình,
Lập nên nhà Hán Tây Kinh,
Rồi sai tướng giỏi với binh lính Tàu
Đưa quân xâm lượt cho mau.
Nhà Triệu mất nước bị Tàu hộ đô.
Coi dân ta là Nam Nô,
Khiến dân ta trở thành lệ nô dân Tàu.

V- NAM VIỆT NHÀ TRIỆU CHÍNH HIỆU BÁCH VIỆT TÊN TỔ VIỆT NAM

Trở lại nhà Triệu lên ngôi,
Cũng nguồn Bách Việt, chẳng ô nhiễm Tàu.
Thay Thục, Triệu dựng nước giàu,
Đặt tên Nam Việt ấy giòng Việt Bách.
An hòa tính chuyện quốc sách,
Vũ Vương tước Hán* theo cách an lành.
Nam Việt nhà Triệu lo canh,
Đất đai chính quận thái bình cũng tan:
Tính từ Đạm Nhĩ, Cữu Chân,
Nhật Nam, Giao Chỉ, Uất Lâm, Câu nhài,
Quế Châu, Hợp Phố, Nam Hai*,
Kể luôn Tượng Quận thẳng dài Thương Ngô….

VI- TÀU ĐÔ HỘ VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT

Lần đầu Bách Việt nhục ô,
Hán Mông cai trị ác ôn kinh hoàng!
Dân ta đau khổ lầm than,
Anh hùng yêu nước, tham tàn giết đi,
Đánh tan dẹp hết một khi.
Tài nguyên chiếm hết, gian thì láu lách,
Bao nhiêu văn hóa Việt Bách,
Bao nhiêu thợ giỏi cắp nách về Tàu.
Bao nhiêu lý thuyết cao sâu*,
Các Ngài Tiền Sử Việt*, Tàu mê ly:
Thần Nông, Oa Nữ, Phục Hy….
Tàu thì chiếm lấy làm tiên sư mình.
Bao nhiêu người đẹp tiết trinh,
Chúng ôm trọn gói phỉ tình trêu ngươi.
Dân ta không được mở lời,
Tổ tiên để lại, khôn đời nào phai.
Bao công trình bao của cải,
Từ nông nghiệp học miệt mài nghìn năm,
Từ luân lý đến hôn nhân,
Nhân quyền nam nữ đến nhân cách người,
Chúng đều đánh phá tơi bời.
Để rồi Khổng tử đem dời vào sách,
Phát thành văn hóa Trung Quốc*.
Để đem dạy lại dân mình nhân văn* !?
Dạy thêm nông nghiệp lần khân*,
Cho rằng Bách Việt ngu đần xưa nay,
Có Hán Mông là thầy hay* !
Làm nên những việc khi thầy chưa sinh*!!!?

VII- TRƯNG TRẮC, ĐỆ NHẤT ANH HÙNG VIỆT NAM

Thời ấy tại huyện Mê Linh
Có quan Lạc tướng hiển vinh anh hùng,
Một mình hùng cứ một phương,
Vốn là con cháu vua Hùng tự xưa.
Vợ là Man Thiện* say sưa,
Cùng hai con gái* sớm trưa luyện tài.
Tài văn tài vỏ bền dai,
Mưu lòng đánh lấy thẳng dài núi sông.
Sức còn yếu, lý chưa thông,
Rủi thay Lạc tướng bệnh thâm âu sầu.
Man Thiện đành phải mưu sâu,
Tìm người cùng hội để cầu liên minh.
Gặp ngay dòng giỏi Sơn Tinh,
Thi Sách họ Đặng vốn tình xưa nay*,
Bèn đem gái chị gả ngay,
Hầu mong kết nghĩa chống ngay quân thù.
Trưng Trắc là gái anh thư,
Nên duyên họ Đặng, như cờ gặp phong.
Man Thiện truyền lại cho con,
Phong làm nữ tướng ra công liên hoàn,
Thi Sách quân đội rỡ ràng,
Cùng Trưng Trắc kết hai đoàn quân trang,
Tiến lên chiếm lấy giang san,
Hầu mong đuổi thẳng tham quan Hán thù.
Chẳng may Thi Sách mắc mưu,
Sa trường thân ngã quân thù giết đi.
Trưng Trắc kế hoạch tức thì,
Chiêu hiền chín quận* chủ trì hợp quân.
Tướng nam tướng nữ chia phân,
Binh nam binh nữ ước gần mấy muôn.
Trưng Trắc vừa mới khai quân,
Giết ngay Tô Định lập nên công đầu,
Bốn phương đem hết sức cầu,
Nàng lên tướng soái giặc sầu tan binh.
Nhiều năm mãi miết chiến chinh,
Trăm sáu hai tướng* kết tinh kết tài,
Gồm thâu phương đông phương đoài*,
Sáu mươi thành củ* đoạt tài một khi.
Mời Man Thiện đứng chủ trì*,
Làm quyền cai quản chuẩn chi nước nhà.
Ít năm Man Thiện đưa ra,
Ý tâm từ giả ép mà cho Trưng*,
Tướng tướng đồng ý tôn vưng
Trưng Nhị làm Soái, Trưng Vương vua Bà*.
Trưng Trắc phong tước cho cha,
Phong khanh phong tướng, câu ca khải hoàn.

VIII- VĂN HÓA THỜI NHÀ TRƯNG

Sửa sang nước trị dân an,
Phát triển kinh tế* đầy tràn nơi nơi.
Làm đường* làm giấy* sáng tươi,
Đúc đồng làm trống* quyết khôi phục nhà*.
Trồng rau trồng lúa trồng trà*,
Là bao di sản mẹ cha đã làm*.
Đặt tên là nước Lĩnh Nam*,
Lập nên luật pháp* bình an nước nhà.
Lập nên một cỏi kiêu sa*,
Luật nước là luật dân ta bình quyền*.
Từ học hỏi đến thợ thuyền,
Từ chia ruộng nước đến quyền công dân,
Ai tài thì cứ dấn thân*.
Không theo lối sống Hán Mông* hại người.
Cố sức hành hạ nữ* thôi,
Cố bắt giới nữ làm người ‘phụ’ nhân,
Không cho học*, cấm tiến thân*,
Chỉ làm hàng ngủ ngu dân* cúi đầu.
Với bao công khó dài lâu,
Trưng Vương tìm cách cất đầu cho dân*.
Thế mà sử liệu lần khân*!!
Theo Tàu mà nói lằng nhằng vua Nam*.
Rằng ba năm* Trưng Vương tàn.
Một đất nước mới huy hoàng dựng xây :
Ai làm nên được như vầy*,
Phát luật có đủ, dựng xây nên đời,
Nông nghiệp kinh tế* hơn người,
Làm sao cho nổi, ngôi trời ba năm.
Chính gian Hán tộc manh tâm,
Cố xuyên tạc bậy, khiến dân mình lầm.

IX- TÀU XUYÊN TẠC LỊCH SỬ NHÀ TRƯNG

Ngàn năm đô hộ đâm mầm,
Khiến cho dân Việt quên dần công ai :
Đã ra tay đuổi lang sài,
Dựng nên nghiệp lớn danh hoài năm châu.
Sử ta chỉ nói vài câu !!?
Coi ra thật nhẹ công đầu Trưng Vương !?
Lòng ta thật quá buồn thương!!
Đệ nhất truy tặng Trưng Vương anh hùng.
Cầu mong dân Việt tỉnh bừng,
Mở mắt xem lại công trình Trưng Vương.
Sử sách chép lại làm gương,
Chứng từ đầy đủ*, chớ đừng viết sai*.
Nghe quân thù ghét nữ tài*,
Là quân Mông Hán ganh tài nữ lưu*.
Sử ta phải sử chính ưu*,
Kẻo hoài tăm tiếng nữ lưu anh hào*.
Trưng Vương đánh thắng giặc Tàu,
Trên đất Việt tổ* đứng đầu sử xanh*.
Suốt ngàn năm giặc nhe nanh*,
Nuốt lần* đất tổ hiền lành trời cho.

X- DÀNH LẠI VĂN HOÁ NHU THUẬN CHUNG (ĐẠO VIỆT = VIỆT NHO) CỦA TỔ TIÊN BÁCH VIỆT (VIỆT CỔ)

Đất còn chữ S phất phơ*!
Nhưng văn hoá cổ* vẩn chờ đợi ta.
Chớ để mất văn hoá* nhà,
Tổ tiên Siêu Việt nước ta khởi đầu*. 
Tiến lên dành lại với Tầu*.
Tiến lên dành lại kẻo sầu lòng nhau.
Văn hoá tiền sử khắc sâu*,
Tổ tiên Việt Tộc gối đầu dạy con*:
Dạy cho hậu duệ vuông tròn,
Nắm cương lĩnh củ, một lòng thuận nhu.
Làm nên Tộc Việt tối ưu,
Để cho tiên tổ khỏi ưu sầu lòng;
Kẻo công tiên tổ cầu mong ??!!
Bốn ngàn văn hiến đâu lòng lảng quên.
Phải thực thi, ngay nhản tiền,
Đạo trời nhu thuận, của tiền nhân cho.
Ấy chính là đạo VIỆT NHO*;
Hán Mông cướp lấy, bỏ kho trưng bày*,
Rằng riêng ta : ‘Văn Hoá đây,
Hán Nho lành mạnh, nghĩa tày trời cao*!?’
Dửng dưng nghếch mặt tự hào*!
Mà rồi chúng chẵng ngày nào thực thi*.

XI- XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRUNG HOA CƯỚP HÃI THỔ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM* 

Lại còn đánh cướp tiếp thâu* :
Hoàng Trường Sa đảo*, khắc sâu thương lòng*.
Lại còn ức hiếp tử vong*,
Một  Đài Hải Thổ* Tổ tông của mình*.
Lời ta lời nói phân minh*,
Biết điều trả lại, kẻo sinh bất bình*.
Trung Hoa quá thật lớn xinh*,
Tham chi thước đất* bạn tình* ốm teo,
Để cho thế giới cười nhèo*,
Rằng ‘thiên tử’ cướp con heo thằng Bờm*. 

Kỳ sau : Các dấu [*] sẽ được chú thích và đưa ra
cứ liệu khoa học về tiền sử,  và về sự nghiệp Nhà
Trưng và các bản đồ nước Xích Quĩ và Lĩnh Nam vv.
Xin mời quý bạn đón xem.

Brossard Québec Canada 10/4/2006
Gs.Ts.Bs. Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh


NĂM 1962, TT NGÔ ĐÌNH DIỆM NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI ĐẦU TIÊN VỚI CSBV, ĐỂ TRÁNH LỆ THUỘC NGOẠI BANG VÀ CHIẾN TRANH NỒI DA XÁO THỊT






NĂM 1962, TT NGÔ ĐÌNH DIỆM NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI ĐẦU TIÊN VỚI CSBV, ĐỂ TRÁNH LỆ THUỘC NGOẠI BANG VÀ CHIẾN TRANH NỒI DA XÁO THỊT  



Nhiều người cho rằng giải hòa với CQ CSVN là tự sát, đó là một sự sai lầm nguy hiểm. Tôi thật rất lấy làm lạ, không biết họ hiểu chữ hòa giải là làm sao. Hòa giải là làm nô lệ hay theo ý kiến đơn phương một bên hay sao ?  

Hòa giải nghĩa là một cuộc đối thoại công bằng giữa hai phe, tôn trọng lẩn nhau, chấp nhận lắng nghe ý kiến và nhu cầu của hai nhau để đi đến một đường hướng hòa bình chung có công bằng, có lợi cho cả đôi bên.  

Đối thoại, thương thuyết, ngoại giao để đi dến một giải pháp tốt lành cho cả đôi bên mới gọi hòa giải với một chủ trương thiết yếu là cứu tổ quốc gọi bị xâm lăng, cứ dân tội khỏi bất hạnh đói rét, bị áp bức…. Hòa giải không có nghĩa quì lạy xin xỏ, là đầu hàng, là nô lệ là tử sát. Tất cả phải là do lòng bao dung và do tài trí của chúng ta đối với người, chứ không 

Mọi người đều biết các nước Đông Âu và nước Nga là nơi đã phát sinh ra XHCN, đã từ bỏ thể chế cở lổ sỉ sai lầm để trở nên những nước dân chủ do đadảng đa nguyen. Nước việt Nam chúng ta tuy chưa bỏ CNXH chỉ vì ảnh hưởng TC.. Nhưng VN đã tiến gần lại với các nước tư bản phương Tây và cũng đã bắt đầu coi trọng quyền tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên tuy chưa thực hiện chính thức được vì TC ngăn chặn.

Năm 1961- 1962 Cụ Diệm cho rằng dầu Mỹ có viện trợ gì đi nữa thì mình cũng phải giữ chủ quyền. Cụ Diệm muốn thay đổi những tướng tá mà Pháp đã bán cho Mỹ 50 triệu đồng, rồi Mỹ giao cho Cụ Diệm xữ dụng, nên Mỹ không muốn thất lời hứa với Pháp mà buộc Cụ Diệm giữ họ lại. Cụ Diệm cũng bất bằng về việc Mỹ lấy dân tôc thiểu số Miền Cao nguyên lập quân đội Fulro, cho ăn mặt, lĩnh lương y hệt quân đội Mỹ để sinh ra một sự chia rẻ giữa quân nhân  Việt và Thượng. Sau nầy khi Mỹ trao quân đội Fulro lại cho QLVNCH thì sinh lắm lôi thôi.

Việc mà Cụ Diệm hằng trăn trở luôn là quyền tự chủ của một dân tộc, quyền tự quyết của Vị Tổng Thống VNCH thường bị tòa đại sứ Mỹ đụng chạm một cách quá đáng. Nhất là Mỹ đòi đồ quânvào VN, đòi thà bom Bắc Việt . Cụ Diệm trã lời : “ Không thể để cho quân lính Mỹ đổ bộ trên đất nước chúng tôi. Vì đó là hành động chúng tôi rất kiêng kỵ ”cỏng rắn cắn gà nhà.”  

Vấn đề thả bom Bắc Việt là một chuổi ngày tranh luận dữ dội. Cụ Diệm và ông Cố vấn Nhu và ông Cẩn rất buồn rầu lo toan. Cụ Diệm than: “Đánh giặc thì phải có kế hoạch chi chớ, đem bom mà thả thì còn gì đất nước, còn gì sinh mạng và tài sản đồng bào, răng thì răng, chớ còn thả bom Bắc Việt thì  tôi nhất quyết không chịu.

Vậy là có chuyện lôi thôi với hoa Kỳ rồi. Chúng ta phải hiểu vào thời gian ấy Mỹ rất coi thường người Việt Nam, văn hóa Việt Nam chứ không như sau 1975, hay hơn nữa như bây giờ. Và cũng vào thời ấy đường lối CSBV rất sát máu. Vậy mà TT Ngô Đình Diệm đã cương quyết đi theo dường lối dân tộc. Người đã phát biểu một  câu nói lịch sử với ba tôi: “ Thà rằng mình chịu nhục với anh em còn hơn bị nhục nhã với ngoại bang…” Ba tôi là dân biểu Ban Mê Thuộc, trông coi Dinh điền rừng cấm, đàn em thân tín của cụ Diệm, người nghĩ rằng sớm muộn Cụ Diệm sẽ bắt tay với Cụ Hồ, nhưng chưa biết khi mô, và với hình thức ra răng đây, khó quá.

Một ngày kia ba tôi đi họp Sài gòn về Ban Mệ Thuộc. báo tin cho mạ tôi rằng cuối tuần ông Cụ Diệm và ông Nhu sẽ lên Ban Mê Thuộc đi săn (Ban Mê Thuộc thời ấy là thủ đô Miền Cao Nguyên). Tôi nghe chuyện nhà nước BMT tồ chức cho TT Diệm đi săn, thì  vui thích quá, bèn xin ba tôi cho tôi đi theo. Ba tôi nói rằng “Đi săn thì phải cưởi ngựa” “Con biết cưởi ngựa.” “Nếu có cọp nhảy, ngựa sợ hất con chết thì không sao, nhưng nếu gảy chân gảy lưng, gảy cổ thì phiền lắm, thôi con không đi.” tôi hết hy vọng.

Sáng thứ bảy quảng vào mùa hè 1961 hay 1962 tôi không nhớ rõ (xin vị nào công cán chính, trong QLVNCH có mặt hôm đó cho tôi được biết.) cả tỉnh Ban Mệ Thuôc chộn rộn dậy thật sớm. Toàn thể quân cán chính tấp nập sửa soạn, đi đón cụ Diệm và ông Nhu lúc 5 giở sáng đế cùng thẵng tiến vào rừng xanh BMT đi săn. Tôi tuy không được đi săn nhưng hồi hộp theo dỏi.

Rồi đoàn người quân cán cính, nào xe hơi nào ngựa. Nhất là quân đội sẵn sàng bao vây tứ phía cuộc săn bảo vệ ông Cụ Diệm. Vậy là đoàn người đông đảo, tấp nập, họp lại trước tòa Tỉnh, hớn hở kéo nhau ra đi khi trời chưa hừng sàng. Tôi chỉ đứng trên lầu thượng của hảng SCIB (Société Commerciale et Industrielle de Banmêthuôt) nơi ba tôi làm Giám đốc nhìn lên Tòa tỉnh mà thôi. Rồi suốt cà ngày hôm đó gia đình ba mạ tôi và các gia đình khác chỉ điện thoại cho nhau chia sẽ lo lắng. Đến chiều tối, mọi người  thấp thỏm chờ mong. 5 giờ, rồi 6 giờ vẩn không tin tức. Chúng tôi lo quá, đến 7 giờ cũng không tin gì cả.

Đến gần 8 giờ ba tôi mới về đến nhà, người bơ phờ, xất ba xất bất, mặt tái mét nhưng vẩn cười gượng. Tôi gấp rút muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Ba tôi điềm tỉnh không nói. Sau khi tắm rửa, ăn uống xong, vào phòng nằm nghỉ một hồi, ba tôi mới nhỏm dậy, tôi và mạ tôi chờ đợi. Ba tôi cho hay đây là cuộc đi săn tráo trộn. ba tôi kể:

“Một điều quá sức ngạc nhiên là đi săn mà ông Cụ và ông Nhu đều mặt đồ tây complet, cravate đàng hoàng, ông cụ măc bộ đồ tơ tằm ‘Tussor’, tay cầm baton. Mọi người vào rừng, lúc đầu đi xe hơi một đoạn, sau bỏ lại xe đi ngựa và đi bộ. Quân đội tỏa ra bao vây khắp nơi. Đi từ 6 giờ sáng đến chừng hơn 11 giờ trưa đến một khoảng xa rừng cấm., thì ông Cụ ra lệnh ngưng lại dùng cơm trưa. Ăn uống vui vẻ nghỉ ngơi chừng hơn một giờ.

Sau đó ông Cụ quay lại nói với mọi người rằng : “Chúng tôi mời quý vị ngồi nghĩ cho khỏe ở đây, tôi và ông cố vấn sẽ đi với nhau mà thôi.” Mọi người phản kháng. Quân đội đòi bao vây bảo vệ. Ông cụ dẹp hết. Ông Cụ Diệm mặc Veste, đội mủ, tay xách baton cùng ông Nhu cuốc bộ đi sâu vào rừng. Mọi người vừa ngạc nhiên vừa tê tái lo sợ, xầm xì to nhỏ nói chuyện với nhau. Họ chờ đợi và lo sợ đến tiều tụy xanh xao. Vì mãi đến 4 giờ tối, 5 giờ tối vẩn chưa thấy ông Cụ trở vể. Trời gần sập tối, mọi người mướt mồ hôi lo sợ thì đến 6 giờ hơn ông Cụ Diệm và ông Nhu lủi thủi từ trong rừng đi ra. Mọi người đều im lặng không một tiếng nói. Tất cả đều nhanh chóng ra về, và đưa ông Cụ thẵng lên tàu bay chờ sẵn về thù đô Sài Gòn.    

Ba tôi kết luận: “ Rõ ràng đây là ông Cụ thực hiện lời ông Cụ đã nói với tui nhiều lần, thà chịu nhục với anh em, còn hơn nhục với ngoại bang. Rõ ràng là ông Cụ đi nói chuyện với CSBV và với Mặt Trận giải  Phóng miền Nam, chưa biết ra răng đây.” Sau đó, ba tôi được ông Cụ gọi về Sài Gòn ba tôi mới được biết hôm đó ông Cụ Diêm và ông Nhu gặp đại diện đảng CSBV và đại diện MTGPMN nói chuyện, hai bên thỏa thuận nhiều điềm. Vì CSBV cũng rất ngại Mỹ thả bom BV. Đó là lần độc nhất Cụ Diệm gặp gở phe bên kia không công khai, qua mặt Mỹ. Ông Cụ cũng cho hay Mỹ tỏ thái độ lạnh lùng, không bằng lòng quyết địng của ông Cụ và ông Nhu.

Đây là lần gặp gở đầu tiên đích thân Cụ Diệm đi gặp mà tôi biết rõ ràng và là nhân chứng. Rất nhiều vị sĩ quan QLVNCH có mặt trong buổi hôm ấy, nay hẳn còn sống và nhớ rõ về buổi đi săn và ngày tháng năm. Việc ra đi đối thoại với CSBV như vậy rõ ràng Cụ Diệm thực hành lời Cụ đã nói: “Thà chịu nhục với anh em còn hơn chịu nhục với ngoại bang.”. Sau đó còn vài cuộc gặp gở khác ở Di Linh vv. Cụ Diệm không đi gặp ai nữa. Coi như có sự đổng thuận giữa hai bên, đặt biệt là giữa TT Ngô Đình Diệm và chủ tịch Hồ Chí Minh.

Vào dịp Tết đầu năm 1963 cụ Hồ Chí Minh gởi tặng Cụ Diệm 2 cành đào kèm theo môt bức thư đã công khai việc giao hòa với nhau. Tôi còn nhờ trong bức thơ cụ Hồ viết:”…Liên Bang Việt Nam gồm 2 miền. Miền nào theo dường lối chủ thuyết xã hội của Miền ấy. Mục đích là chúng ta phải sống hòa bình lo phát triển đất nước làm cho dân no ấm, đất nước thịnh vượng ….”

Đó chính là nguyên nhân chính yếu làm Hoa Kỳ mắc cở mà ra tay giết hại ba anh em TT Ngô Đình Diệm, để sau đó Mỹ lại theo đường lối của Cụ Diệm nhưng với tư thế vô cùng nhục nhả cho Mỹ và VNCH.

Như vậy từ năm 1963 là thời chế độ CSBV còn ác liệt, mà TT Ngô Đình Diệm đã quyết tâm giao hòa với CSBV, ngày nay qua bao nhieu đổi mới, tại sao chúng ta còn dám nói giài hòa với CSVN là tự sát. Phải chăng trí óc chúng ta còn hủ lậu quá chăng ? Tài năng chúng ta yếu kém quá chăng ?

Gs. Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh MD.Ph.D.









.