samedi 28 janvier 2012

NÓI VỚI LỮ GIANG - ẢI NAM QUAN, HOÀNG SA TRƯỜNG SA LÀ CỦA AI ?


Kính thưa đồng bào Nội Ngoại,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa Quý Chủ DĐ xin giúp phổ biến,
Thưa ông Lữ Giang,


Đến giờ này mà mấy ông “nền ôn” còn cãi nhau: Ải Nam Quan là của Tàu hay của ta ?!  Trước đây ông Lữ Giang có nói Ải Nam Quan là của Tàu, tôi đã lên tiếng phản bác dữ dội với bằng chứng lịch sử rồi.  Vừa rồi đây lại thấy tên Hán Chệt nào lấy tên Aladin Nguyễn nói rằng Ải Nam quan là của Tàu vì nằm phía Nam nước Tàu. 
Nay lại nghe Lữ Giang muốn tranh luận về Ải Nam Quan là của ai?  Còn thêm nữa, Hoàng Sa là của Tàu hay của ta.  Làm cho tôi dù có cảm tình với Lữ Giang, vẩn đặt nặng nghi vấn đến 99% rằng, Tàu thấy Lữ Giang có tài viết lách, có uy tín, với nhiều tài liệu của Mỹ nên đã thuê LG làm tay sai thật rồi.  Tôi nói vì lương tâm, với tâm lý và với bằng chứng sự thật, vì Lữ Giang không thể là người ngu si, ngu ngốc được.
Bây giờ tôi xin chứng minh lại một lần nữa, và yêu cầu Lữ Giang đừng nguỵ biện mà làm trò cười cho trẻ con.
 
Tử thời nước Nam Việt của Triệu Đà, rồi đến nước Lĩnh Nam của Trưng Vương, nước ta có 9 quận như sau:
Hợp Phố (tức Quảng Ðông thuộc Tàu ngày nay), Thương Ngô và Uất Lâm (tức Quảng Tây thuộc Tàu ngày nay), Châu Nhai,  Nam Nhĩ, Nam Hải (tức đảo Hải Nam Tàu thuộc Tàu ngày nay), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh) gồm 65 thành mà vua Trưng Trắc đã đánh chiếm lại được.


Khi Mã Viện đánh chiếm nước Lĩnh Nam, nó ở lại trên 1 năm trời.  Tìm tòi tài nguyên, tài liệu lịch sử, văn hoá, y tế, kinh tế, khoa học kỷ thuật,  nước ta, phần thì nó cướp đem về Tàu, phần thì nó đốt bỏ tiêu diệt.  Nó thâu góp hết trống đồng đúc ngựa chơi, và đúc cột đồng trụ với một mục đích vô cùng nhan hiểm. 


Nó nghiên cứu địa thế, và dùng cột đồng trụ chia cắt 9 quận nước ta làm 2 phần. Sáu (6) quận nước Lĩnh Nam giáp đất Tàu gồm: Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai,  Nam Nhĩ, Nam Hải thì nó sáp nhập vào đất nước Tàu. Nước ta chỉ còn lại 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam theo như 2 bản đồ sau đây.




      
Bản đồ nước Lĩnh Nam trước và sau khi Mã Viện
chiếm đất 6 quận, chỉ còn lại 3 quận


 
Nơi chốn Mã Viện trồng cột đồng trụ trở thành biên giới giữa ta và Tàu, nằm xa về hướng Bắc Ải Nam Quan hiện tại.  Nhưng suốt từ thế kỷ thứ 1 sau CN đến thế kỷ 13 thì biên giới của Mã Viện phân chia dần bị lấn về phương nam.... 


Vào thế kỷ 13, nhà Minh chiếm nước ta suốt 20 năm, Tàu đã lập nên Trấn Nam Quan hay Đại Nam Quan ngay chổ biên giới phía Bắc, chính Tàu là người vạch chỉ, xây Ải và ghi tên bên trên là “Chiêu Đức Đài” nhưng thường gọi tắt là Trấn Nam Quan.


Phía Nam, vua Việt Nam cũng cho xây sát vào đường chỉ biên giới Trấn Nam Quan của Tàu, phía trên thành ghi là “Ngưỡng đức Đài”. 


Hai toà “Chiêu Đức Đài” hướng về phía Bắc của Tàu và “Ngưỡng đức Đài” hướng về phía Nam của Việt Nam, hai đài của hai nước đâu lưng lại với nhau. 


Vì xây trong thế kỷ 13, thời gian nhà Minh đô hộ nước ta, nên Tàu gọi chung cả 2 đài là Ải Nam Quan, người mình cũng quen miệng, thành ra cũng gọi chung của 2 cửa quan đâu lưng cho nhau, phía Bắc của Tàu, phía Nam của ta là Ải Nam Quan.  Thật ra biên giới 2 nước là cùng một nơi sát lưng nhau. 


Đến thế kỷ 18, phía Tàu là nhà Thanh, phía Việt Nam là nhà Lê đều cùng sửa sang, tu bổ lại như hiện nay.


Đến đời Nhà Nguyễn đã được săn sóc giữ gìn và ghi chép lại rõ ràng rằng: Ải Nam Quan trở thành tên gọi chung, gồm hai phần kiến trúc:

1- Phần kiến trúc thứ nhất hướng về Bắc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 13, tu bổ lại thế kỷ 18 gồm có Cửa Quan và những cơ sở phụ thuộc phía Bắc gọi là ''Chiêu Ðức Ðài''.  Tàu còn gọi là Trấn Nam Quan hay Đại Nam Quan.
 
2- Phần kiến trúc thứ hai hướng về Nam do chính quyền Ðại Việt xây dựng gồm có ''Ngưỡng Ðức Ðài'' và hai dãy hành lang Tả Hữu, và có bia được lập vào thế kỷ 13, tu bổ lại vào thế kỷ 18 ghi địa giới hai nước. VN ta thì quen miệng gọi là Ải Nam quan. 
 
Danh từ ''Ải hay Đại Nam Quan'' do triều đình Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa của Tàu mở xuống hay đi xuống phía Nam cho Tàu; và cánh cửa mở để đi lên phương Bắc cho Việt Nam.  Như thế, khi xây dựng cửa Ải Nam Quan, triều đình Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới phía Nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan là Cửa Ải cực Bắc Trung Hoa.


Mỗi lần Sứ Quan một trong hai nước bước qua Cửa Ải là tiến vào địa phận nước bên kia.  Xin nhớ rằng, nơi biên giới là một đường chỉ gạch và một bên có một của thành.  Mổi lần có việc VN qua Tàu thì phải mở của thành của VN trước, rồi thành của Tàu sau, và ngược lại.


Vậy tại sao bây giờ chúng ta mất Ải Nam Quan là mất làm sao?

Phải chăng chúng ta mất cái cửa thành có ghi chữ là “Ngưỡng Đức Đài”.   
- Thưa không.


Quân Tàu đã đánh nước ta năm 1979.  QĐNDVN đã chống lại dữ dội.  Nhưng không lấy lại được hết đến Ải Nam quan hay Ngưỡng Đức Đài.  Quân Tàu xâm lăng vẩn còn đóng quân chiếm giữ nhiều đất đai, tỉnh và lãnh thổ nước ta nằm vào phía nam Ải Nam Quan.  

Theo sự hiểu biết của tôi thì hình như ăn sâu vào địa phận nước ta từ 5km đến 7km với số đất đai là 85.000km2, mà QĐNDVN không lấy lại được.  Phải chi tình hình như vậy mãi đến ngày nay thì hay biết mấy, chúng ta rất dễ đòi lại.


Nhưng cho đến 10 năm sau khoảng 1999-2000, Tàu tìm cách mua chuộc chính quyền CSVN chính thức hoá dãy đất sát biên giới nước ta và Tàu ăn sâu vào địa giới nước ta từ 5 đến 7km chiều sâu, và chiều ngang thì chạy suốt từ Đông sang Tây nước ta, tất cả gồm trên 85.000km2 lãnh thổ sáp nhập vào đất Tàu, thay đổi cột mốc.  Đó là chưa kể lãnh hải và tính thành riêng khác nữa. Đó cũng là chưa kể Bải Tục Lâm và núi đồi Lão Sơn và các tỉnh Tàu thuê.


Sự kiện rõ ràng là như vậy, tại sao mấy vị “nền ông, đực rựa” học cao, biết rộng lại không hiểu mà cứ cho là Ải Nam Quan là của Tàu để cho nó chiếm đừng đòi lại, rồi lại cãi vả nhau như trẻ con.


Ông Lữ Giang còn thách thức nhau tranh cãi xem Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam hay của Tàu. Hởi ơi! Thật là nhục nhã.


Vậy tôi xin thêm ý kiến về Hoàng Trường Sa.  Xin không cần nhắc đến mọi chứng cứ lịch sử mà mọi người đã biết.  Cũng không nhắc đến cứ liệu văn hoá lịch sử mà ít người biết, kể cả chính quyền VNCH và VNCS cũng không biết, tuy đã có ghi vào sách vở từ lâu đời trước xa hơn nhà Nguyễn hay nhà Lê.   

Trên Hoàng Sa có xây một tấm bia ghi là “Vạn Lý Ba Bình”.  Quý vị có biết ai là người xây tấm bia đó không?  Chuyện nầy tôi nghe nhiều tiếng nói từ quốc nội ra đến hải ngoại….  Nhưng hiện tôi chưa nói đến được, còn đợi….


Tôi xin hỏi quý vị, quân Tàu là quân tham lam, gian giảo độc ác, nếu Hoàng Sa là của nó, thì :

1- Mắc mớ gì chúng nó phải đổi chác viện trợ với CSBV trước kia, để nhờ Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm nhận tạm bợ bá vơ lãnh thổ của VNCH là của Tàu giúp cho mưu ăn cướp của bọn giặc xâm lăng.
     
2- Nếu Hoàng Sa là của Tàu, thì mắc mớ gì chúng phải đợi khi Mỹ rút khỏi VN, rồi Tàu mới mang cả một hạm đội vĩ đại đến đánh VNCH vào lúc VNCH đơn cô, thế cô, để chỉ chiếm một phần Hoàng Sa cái đã.  Rồi dần dà chiếm tất cả Hoàng Sa sau.

3- Nếu Hoàng Sa Trường Sa là của Tàu, sao nó chỉ chiếm HS mà không chiếm Trường Sa liền ngay.  Rồi phải đợi gần cả 40 năm sau mới chiếm Trường Sa. 

4- Cái bằng chứng Tàu ngang ngược vẻ cái lưỡi bò trên Biển Đông của VN, đòi chiếm Biển Đông là cốt lỏi của chúng, và chiếm tự ý chiếm trọn cả bờ biển VN đến sát đất liền và giết cả ngu phủ VN, thì không đủ chứng minh là Tàu cướp Hoàng Sa và Trường Sa của VN chúng ta hay sao?  Còn đòi cứ liệu gì nữa.  

5- Sao không đặt vấn đề biển của VN là của Tàu luôn cho tiện. Hay ông Lữ Giang không đặt vấn đề nước Việt Nam, nước An Nam là của Tàu luôn cho tiện vì nước ta nằm về phía Nam của nước Tàu.

6- Đường lối của TC là đường lối bành trướng ngang ngược, láo khoét khiến cả thế giới phải ngạc nhiên khinh bỉ, lánh xa.

7- Vậy mà ông Lữ Giang Tú Gàn Nguyễn Cần, là thẩm phán, là luật sư mà lý luận như kẻ điên khùng vậy thì vô lý lắm, coi khinh dân Việt lắm.  Chỉ có thể vì nhận đơn đặt hàng cao giá lắm thôi.  Tôi biết ông Lữ Giang viết lách, lý luận sắc sảo lắm kia mà, TC thèm cây bút của ông LG NC quá đi rồi.  Có phải không?
 
8- Nhưng tiếc Lữ Giang là người có bộ óc thông minh, chịu khó, cần cù, lém lỉnh, làm nghề thậm phán, luật sư, lại là người CG, mà nở đem bán rẽ lương tâm, lòng yêu nước, yêu dân cho kẻ thù bằng những lý luận ẩu xĩ ẩu tả phĩnh con nít như vậy sao ?  Dân VN đâu đến nổi ngu mà nghe mấy trự “đực rựa” VGBN như vậy.


Tôi yêu cầu ông Nguyễn Cần là người CG có ăn học, thông minh, hiểu xa biết rộng, không lẻ ông ngu muội ôm mãi cái lý luận “Ải Nam Quan nằm phía Nam nước Tàu là của Tàu…”.  Chớ nên giả ngây thơ mà làm những việc vô lương tâm, bán rẽ linh hồn cho ma quỉ.   

Vì làm VGBN là giết cả một dân tộc, là tiêu diệt nòi giống của mình, tội lỗi lớn lắm, Chúa không bao giờ tha thứ, vì dân tộc VN không bao giờ tha thứ.
 
Ông TP Nguyễn Cần hãy mau quay trở lại, kẻo quá muộn.  Chính nghĩa Dân tộc VN luôn luôn khoan dung độ lượng.   

Trưng Trắc
  
2012/1/27 Aladin Nguyen <quatloiphong7@yahoo.com>
Do Thai Nhien <dothainhien@yahoo.com>
Sent: Sunday, January 22, 2012 8:16 AM
Subject: Ải Nam Quan là của Tàu hay của Việt Nam

 Kính gửi ông Tú Gàn
 Trong bài viết "Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa", ông Tú Gàn có nêu đề nghị: Tú Gàn và Đỗ Thái Nhiên sẽ tranh luận với nhau để biết xem "Ải Nam Quan là của Tàu hay của Viêt Nam". Theo ông Tú Gàn cuộc tranh luận sẽ diễn ra trên một đài truyền hình nào đó. Tôi rất hài lòng khi nhận được yêu cầu vừa kể của ông Tú Gàn. Tuy nhiên, tranh luận về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam đối với lãnh thổ Việt Nam cần phải được diễn ra trước sự chứng giám trực tiếp của khán thính giả Việt Nam. Đó là lòng tôn kính cần có và tự nhiên của mỗi người Việt Nam dành cho tập thể quần chúng Việt Nam. Mặt khác, tranh luận dân chủ không là cơ hội để những người khác biệt ý kiến thóa mạ lẫn nhau thậm tệ và vô trật tự. Tranh luận dân chủ có chủ đích làm cho công lý được sáng tỏ.
Vì vậy, Tôi mong muốn là cuộc tranh luận giữa ông Tú Gàn và tôi cần dược diễn ra theo hai điều kiện sau đây:
      1)Địa điểm tranh luận phải là một hội trường đủ rộng để cho công chúng tự do dư thính và có ý kiến.
      2)Cuộc tranh luận cần được điều hợp bởi một ủy ban trọng tài do ông Tú Gàn và tôi thỏa thuân tuyển chọn
Tôi rất tin tưởng cuộc tranh luận sẽ nhanh chóng diễn ra.
       Nay kính
      Đỗ Thái Nhiên

  2/ Đối với Nhà văn Mặc Giao tức ông Phạm Hữu Giáo, Tú Gàn tức Lữ Giang tức Nguyễn Cần viết:
       ”, vậy anh nên chấp nhận tranh luận với tôi về đề tài chính trong bài của tôi là chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa theo quốc tế công pháp:  Tàu nói của Tàu, ta nói của ta, vậy Hoàng Sa và Trường Sa là của ai? Nếu anh đúng là một nhà ngoại giao và một luật gia, xin ra nói chuyện về vấn đề qua trọng này.

    Và ông Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao trả lời:
   
From: MacGiao <macgiao@shaw.ca>
Sent: Saturday, January 21, 2012 12:33 PM
Subject: RE: [chinhnghia] Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa!

     "Sự thật là như thế. Ông Nguyễn Cần còn muốn xuyên tạc gì thêm không? Tôi sẵn sàng nói rõ sự thật cho ông và cả làng nghe. Tôi khuyên ông nên giữ thái độ “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, đừng ra vẻ ta đây cái gì cũng biết, nhưng sự thật chẳng biết gì. Khi bị lật tẩy mắc cở lắm".

    Kính thưa quý vị,
   Như thế đã quá rõ ràng, Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần đã đưa ra lời thách thức tranh luận vào ngày Saturday, January 21, 2012 12:06 PM, và chỉ 27 phút sau, tức ngày Saturday, January 21, 2012 12:33 PM  ông Đỗ thái Nhiên tức LS Nguyễn Phương Minh, và cựu Dân Biểu Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao chấp nhận lời đề nghị tranh luận của Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
 Nhưng đã gần một tuần lễ trôi qua mà Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần im re hay còn gọi là nín khe!!! Chúng tôi đang chờ đợi sự trả lời từ  Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
   Nhân tiện, chúng tôi xin mạn phép kính nhờ quý vị "đoán thử xem" Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần có dám xuất hiện để tranh luận với các ông Đỗ Thái Nhiên (tức LS Nguyễn Phương Minh) và nhà văn Mặc Giao (tức cựu Dân Biểu VNCH Phạm Hữu Giáo) không?
   Trân trọng kính nhờ và kính mong công luận phán xét.
    Trần Việt


From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]

 
Vì bản chất dân tộc Việt?
Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “Chỉ là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt ‘xấu xa’” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: “Cua Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại, nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội gióng nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.-  Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.-  Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.-  Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.-  Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.-  Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6.  Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7.  Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off].
8.-  Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.-  Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.-  Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại  sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh  hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA
Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được. Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang

__._,_.___
__,_._,___

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire