lundi 26 octobre 2015








Thân kính gởi toàn thể đồng bào yêu Tổ quốc, yêu Nhân dân, quốc nội và hải ngoại.


VÌ LÒNG ĐẠI ÁI QUỐC, CẦN GIAO BANG VỚI CQ/CSVN Đ DÀNH LI LÃNH TH LÃNH HI, BIN-ĐÔNG, HOÀNG SA-TƯỜNG SA T TAY GIC TÀU CHT ! 


BA BÀ CHÁU




Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh



- Phần Một: Dành lại lãnh thổ Bắc phương, Biển Đông, Tây Nguyên…. từ tay TC.
- Phần Hai: Cẩm nang “Ngô Đình Nhu” chống xâm lăng Tàu.



Phần Một:

Trong bài viết “Quan điểm của ông Ngô Đình Nhu về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng” TS. Phạm Văn Lưu (từ nay xin viết PVL) đã nhắc lại lời nói của TT Tưởng Giới Thạch : “Việt Nam phải mất 100 năm nữa mới tìm được một lãnh tụ cao quí như ông Ngô Đình Nhu”;  nhưng TS. PVL lại cho rằng phải thêm 100 năm nữa, tức là phải 200 năm. Riêng tôi, thì thiển nghĩ rằng: Ông Ngô Đình Nhu đã nghĩ ra một chiến lược như một cẩm nang, một kim chỉ nam, một ‘bí kíp’ chống  xâm lăng Tàu, nhưng chính ông Nhu đã không dùng được chiến lược của ông, đặc biệt là “ngoại giao khoáng đạt” của ông để chiến thắng mọi phe đối lập và ‘kẻ thù’ đồng bào và đồng minh của mình. Vì vậy công việc của ông Ngô Đình Nhu là lý thuyết thì đã đủ khi đưa ra một kế hoạch cứu nước, và phần còn lại là thi hành thì ông còn chờ tay những kẻ hậu thế quốc nội cũng như hải ngoại.


Nhất là khi ông Ngô Đình Nhu nói rằng “Người Việt nam mình chỉ biết Nam tiến mà bỏ quên Đông tiến, vì bờ biển VN rất dài và nguồn lợi thực phẩm nuôi dân thất vô bờ, vì vào thời ấy hoàn toàn chưa biết bờ biển VN chứa nhiều mỏ dầu khí. Có nghĩa là ông NĐN thấy sự việc quan trọng nhưng ông không làm gì để Đông tiến, bằng cớ là trong thời gian 9 năm trời ổng không hề đá động đến phát triển một chiền lược Đông tiến với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa lúc đó hoàn toàn VN sở hữu.


dầnkhi đò chưa biết ngoài kho dầu . Vì bờ b”Nghĩ như vậy, chúng ta sẽ chẳng còn gì luyến tiếc mơ ước thêm phải đợi 100 năm…, trái lại còn đầy hy vọng và trách nhiệm cứu nước ngay trước mắt với kim chỉ nam mà tiền nhân đã chuẩn bị sẵn sàng, dầu hiện đã quá chậm trể.

Vậy trong tình thế dầu sôi lửa bỏng với nạn xâm lăng TC, tôi không thể ngần ngại mà không xin phép nói lên rằng, chiến lược ông Ngô Đình Nhu phải được coi như là một cẩm nang cứu nước độc nhất của dân tộc Việt Nam.  Và điều cần thiết hiện tại là làm sao chính chúng ta CĐ/NVHN và cả chính quyền CSVN biết thi hành chiến lược mà ông Ngô Đình Nhu đã đề ra. Như vậy nền Đệ I VNCH đã có công để lại cho hậu thế khí giới hữu dụng chống ngoại xâm.  Như vậy ý nguyện của người đi trước sẽ không hờn tủi, và tài năng của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mới không uổng phí, trái lại là một tài sản vô giá cho Tổ Quốc và dân tộc VN.  Nếu cần một ‘Ngô Đình Nhu thứ hai’ thì chắc chắn sẽ không giống như ‘Ngô Đình Nhu thứ nhất’, vì lẽ ‘Ngô Đình Nhu thứ hai’ sẽ phải là người thi hành kế hoạch chứ không còn cần thiết là người suy nghĩ ra chiến lược.


Với bài nầy tôi chỉ xin đặt nặng vấn đề chống xâm lăng bằng ngoại giao tôn trọng lẫn nhau, ngoại giao công bằng và hữu nghị theo tinh thần Ngô Đình Nhu 50 năm trước, tinh thần hòa giải của TT Obama và cũng thêm nhiều ý kiến của TS. Phạm Văn Lưu và nhiều vị khác trên các DĐ, báo chí, hội luận từ nhiều năm nay. Và đặc biệt là cần một tinh thần hòa giải tân kỳ, sáng tạo, bình đẳng, khoáng đạt chứ không phải là hòa hợp hòa giải nô lệ, bất công, phĩnh gạt của những năm 1945, 1954, 1973.


Như tôi đã từng lên tiếng trong sách lược đấu tranh không chỉ có vấn đề quân sự, mà bang giao hữu nghị đúng phương cách là một phương pháp thượng thặng đặc trưng cao quí:  Trong các sách binh nghiệp thế giới, nổi tiếng nhất là “TÔN TỬ BINH PHÁP”.  Sách bàn về chiến đấu, nhưng trong những phương thức chiến đấu, khi cần ‘CÓ CHIẾN’ thì chiến, cũng như khi cần ‘CÓ HÒA’ phải hòa, tùy thời tùy cơ mà ứng xử mới mong đạt thắng lợi. 


Chúng ta cần có một chiến lược bang giao không ấu trĩ, cổ hũ mà phải là hữu nghị, văn minh, khoáng đạt: Dấn thân đấu tranh ngoại giao, thương thuyết với CSVN, với Liện Hiệp Quốc, với Hoa Kỳ và với mọi quốc gia của thế giới tự do, kể cả với TC, tức chưa cần dùng đến quân sự nhưng không có nghĩa không cần chuẩn bị quân sự thật ưu tiên, thật tiên tiến trong lúc nầy.  Chúng ta cần sáng suốt lựa chọn, chống cộng hay chống xâm lăng CS Tàu, trong lúc CSVN đang dựa vào lòng CS Đại Hán.  NVQGHN chúng ta cần bắt chước các nước cựu CS Liên Xô và Đông Âu mà từ bỏ mọi hận thù quá khứ, để chỉ còn lý tưởng cứu Tổ Quốc thoát khỏi xâm lăng Trung Cộng, đó chính là con đường độc nhất giúp chúng ta đạt mọi thắng lợi ước mơ.  Trong hoàn cảnh chúng ta hiện tại, bắt buộc phải ‘tranh đấu ngoại giao khoáng đạt, bằng hòa hoãn, bằng thuyết phục cùng có lợi cho cả ‘đôi bên bốn phía’ theo đúng tinh thần Ngô Đình Nhu và TT Obama.  Chúng ta tuyệt đối không có con đường cứu nước thứ hai. 


Đó cũng chính là lý tưởng quốc gia với tinh thần nho giáo, lấy đức thuần nhu của Lão Tử, từ bi của Đức Phật Thích Ca, nhân từ của Nguyễn Trãi và bác ái của Chúa Kitô làm căn bản.  Đó là thiện chí cứu nước cao siêu, là hành động của người anh hùng đức độ. Đó là cái dũng cảm của thánh hiền, đúng nghĩa như lời Tô Đông Pha: “Kẻ đại dũng trong thiên hạ…. thình lình gặp chuyện phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận.  Đó là nhờ ở hoài bảo của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy.” 


Tất nhiên chúng ta phải có một sách lược đặc biệt trong việc tiến hành thương thuyết cứu nước.  Đó chính là cẩm nang quí báu mà ông CV Ngô Đình Nhu đã dày công đúc kết để lại cho nước VN chúng ta. Sẽ chẳng những không kém phần thắng lợi, lại còn tỏ ra thiện chí siêu việt và một lòng cao thượng của người quân tử theo đường lối của thánh nhân; đó là cái thế tinh thần tất thắng của chúng ta; và đó cũng là hành động cụ thể đầu tiên trong sách lược của Lão Tử: “Thắng nhơn giả hữu lực, tự thắng hữu cường. Nhu thắng cương, nhược thắng cường.”  Con đường vương đạo nầy hoàn toàn thích hợp với thời đại chúng ta hiện nay như Chúa Giêsu đã nói: “Phước cho kẻ có lòng ngay lành, vì đất Đức Chúa Trời là của chính họ.”   Nó sẽ thu phục lòng người, nó sẽ bẻ gãy mọi xảo trá và chiến thắng mọi hung tàn như Nguyễn Trãi đã nói “Lấy đại nghĩa để thắng hung tà.  Đem chí nhân để thay cường bạo.


Trước đây CSVN đã nói rằng họ bất đắc dĩ phải nhờ vào bạo lực là do việc chống thực dân Pháp và Mỹ để cứu nước. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, CSVN cũng lại dùng bạo lực suốt 34 năm trời để đối xử với nhân dân, để trả thù và để củng cố chính quyền độc tài của họ.  Nhưng đến khi giặc thù xâm chiếm đất nước thì họ buông xuôi tay, nhượng đất nhượng đảo, nhượng biển, đàn áp nhân dân, đàn áp tuổi trẻ biểu tình chống ngoại xâm; ủng hộ ngoại xâm xúc tiến một cách tinh vi hơn bao giờ chính sách xâm lăng tân kỳ không cần quân lực, không tốn một viên đạn; cho phép kẻ thù tiến chiếm đất nước ta, giết dân ta ngay trong lãnh hải ta, mà không cần súng đạn.


Bây giờ vẫn chưa muộn.  Là một tội lỗi lớn nếu đảng CSVN không dám có kế hoạch, chính sách mới cứu nước bằng ngoại giao hữu nghị, công bằng, khoáng đạt với tinh thần tôn trọng sự thật đối với CĐ/NVHN và với Hoa Kỳ cùng thế giới tự do.  Có như vậy mới mong dành lại đất đai, biển cả, thành trì chiến lược Bản Giốc, Ải Nam Quan, xương sống đất tổ Tây Nguyên của đất nước đang nằm trong tay kẻ thù chung muôn kiếp không bao giờ phôi pha.


Nhất định chúng ta quốc nội và hải ngoại phải từ bỏ đường lối chính trị thủ đoạn lỗi thời, đường lối ngoại giao ấu trĩ, lệ thuộc, ngoại giao chư hầu, ngoại giao cầu xin/cho phép, nhưng quyết tâm xử dụng một chính trị ngoại giao vương đạo, công bằng, hữu nghị, đức độ. Đó là một binh lược thượng thặng như Tôn Võ đã nói: “Thương lượng dụng Đức, hạ lược dụng Binh. Đánh 100 trận, thắng 100 lần chưa gọi là giỏi, trái lại chỉ gieo oán hờnnhư chúng ta đã kinh nghiệm trong quá khứ kéo dài đến nay…Không đánh mà khuất phục được địch mới là đại trí, khuất phục được địch mà không đổ máu mới đại quí.”  Chúng ta cần có phương thức ngoại giao cách mạng đúng theo tinh thần CV Ngô Đình Nhu và TT Obama.  CSVN đang trên đường làm mất nước, chúng ta phải lấy cái dũng của thánh nhân để ngăn chặn việc làm tai hại của CSVN. Nếu chúng ta thành công thuyết phục CSVN là chúng ta đại thắng. Thắng mà không cần chiến mới là thượng sách. Tuy vậy bây giờ CQ/CSVN đang trên con đường thức tỉnh, tuy chậm mà chín chắn vẫn hơn.


Tuy hiện tại NVHN chúng ta ở rải rác khắp 5 Châu bốn biển, xa cách nhau muôn trùng, nhưng lòng yêu nước của chúng ta rung lên cùng một nhịp điệu khoắc khoải đau thương não nùng là một.   Dòng máu xây dựng độc lập, tự do, dân chủ, nhân quyền, văn minh, thịnh vượng của giống dòng Lạc Việt không bao giờ ngưng chảy trong huyết quản chúng ta từ trên 4000 năm nay cũng là một.  Chúng ta NVHN, hãy sáng suốt lánh xa, hãy khinh bỉ bọn tay sai dân vận TC đang phá rối chúng ta một cách ác liệt ngày đêm. 


Đó cũng là nguyên nhân làm suy kém sức mạnh dân tộc, và quan trọng hơn nữa là làm cho CSVN (dù NVQG coi chính sách XHCN là thù địch) ngày càng suy yếu  mà ngã vào bàn tay dã man của CS Tàu. Và đó cũng là nguyên nhân khiến hận thù truyền kiếp dân tộc ngày càng lún sâu mà TC đã gia công dùng tay sai tình báo dân vận Tàu gây hấn suốt 34 năm qua trong chiến lược “ngao sò (CSVN & NVHN) đánh nhau, ngư ông (TC) hưởng lợi” mà không một nước XHCNCS nào khác trên thế giới phải hứng chịu một cách thảm khốc để đưa đến đại nạn mất nước như Việt Nam chúng ta.  


Chúng ta cần sự nhất trí đoàn kết, đoàn kết giữa NVHN, giữa các đảng phái NVHN, đại đoàn kết ngoại giao, không phải ngoại giao lệ thuộc, quị lụy, xin/cho, ấu trĩ, lạc hậu, nô lệ mà là ngoại giao trong tinh thần bình đẳng, công minh, khoáng đạt, trước nhất là giữa NVHN, đồng bào quốc nội và với CQ/CSVN khi họ thức tỉnh, khi họ biết đổi mới hợp thời, tận gốc rễ; ngoại giao với thế giới tự do vì quyền lợi chung của hòa bình trên trái đất,  thì chắc chắn chúng ta sẽ dành lại toàn vẹn Bắc lãnh thổ, Biển Đông, Tây Nguyên. 


Chúng ta nhất quyết phải đại đoàn kết trong văn minh nhân loại toàn cầu hóa để chống quân thù Bắc phương, giữ vẹn toàn lãnh thổ đất nước, để lo hạnh phúc cho nhân dân.  Tinh thần đoàn kết tự nghìn xưa đã luôn luôn là giềng mối giúp cho các đấng nam nữ anh hùng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam để chúng ta thừa hưởng ngày nay.


Chúng ta không thể an tọa trên chăn êm nệm ấm mà bỏ quên đất nước, càng không thể nằm trên chăn êm nêm ấm mà đòi đấu tranh cứu nước được, cũng không thể ngồi chờ sung rụng.  Càng không thể xúi dại toàn dân Việt nhắm mắt liều thân trước họng kềm sắt máu xe tăng CS.  Cũng không thể dùng nhũng sách lược hạn hẹp, ấu trĩ tìm cách hạ bệ nền kinh tế nước nhà, hay ngồi xem tay sai tình báo dân vận TC hống hách xì xằng cổ võ chống cộng cuội trên các DĐ/NVHN như từ 34 năm nay.  Ngồi xem kẻ thù xâm lăng đang chiếm dần đất nước, đang cày xới mồ cha mả mẹ, đang ức hiếp đồng bào ngư dân ruột thịt trên biển cả một cách nhục nhã đớn đau tận xương tủy.


Chúng ta phải can đảm, không sợ tình báo dân vận TC mạ lỵ vu khống điếm nhục, không yếm thế, lạc lòng, không tự ti hay tự cao mặc cảm…không nhụt chí anh hào, không sợ những kẻ thấp chí, tiểu nhân, ganh tương, tị hiềm, bè nhóm, lũng đoạn tinh thần làm cho chúng ta nao núng.  Trái lại chúng ta phải dấn thân, phải đổ mồ hôi nước mắt, chúng ta phải dám trải xương máu trên đường đi, may ra cảm động lòng Trời.  Trời sẽ giúp chúng ta cứu đất nước, cứu đồng bào tận cùng lâm nguy. 


Chúng ta cũng hiểu cả nước Mỹ siêu cường trong 20 năm nay ra sức ủng hộ, thuyết phục, khuyến dụ CSVN mà chưa đi đến đâu.  Với gương ngoại giao bao dung mà quang minh của người Mỹ, cùng là đồng bào ruột thịt, nếu muốn chúng ta có đủ cơ hội thành công lớn trong ngoại giao kháng đạt với CSVN, nhất là vào giai đoạn yếm thế của nhà cầm quyền CS ngày nay.  Họ đang muốn kêu cứu NVQGHN chung sức cứu nước, nhưng lòng kiêu căng của kẻ thắng với nghị quyết 36 độc quyền, họ hoàn toàn thiếu một nhận thức đúng đắn để thành công trong đại đoàn kết dân tộc. 


Chúng ta cũng phải là người am tường để hiểu rõ và thông cảm TC sát nách đã dùng uy vũ, vũ khí hạt nhân, nợ nần, đổi chác, tiền tài, dụ dỗ, ức hiếp, hăm dọa, đàn áp CSVN, cá lớn nuốt cá bé!  TC đã giết các tướng lãnh tài giỏi yêu nước của CQ/CSVN đương kim bằng mọi thủ đoạn hèn hạ nhất, và uy hiếp lòng người CSVN tham sanh úy tử, bán nước cầu vinh. 


Chúng ta cần phải thuyết phục CSVN làm cho họ biết tự thắng lòng tham sân si để cứu nước và cứu mình.  Vì CS chỉ biết dùng bạo lực, điều nầy chứng tỏ họ không có chính nghĩa, không có nhân dân.  Thù hận chỉ kéo theo thù hận, bạo động chỉ kéo theo bạo động. Chúng ta phải vì sự tồn vinh của tổ quốc mà quên đi mọi quá khứ tội lỗi của CSVN và đau thương của dân tộc. 


Chúng ta chỉ nên lấy lòng chân thật, vị tha, đức độ và tình yêu, mới có thể cảm hóa được lòng dạ sắt đá của CSVN và chiến thằng hấp lực khủng khiếp của CS Tàu trên CSVN.  CSVN chỉ biết dùng bạo lực trấn áp nhân dân, trí thức, giới trẻ SV, HS Việt Nam yêu nước chống quân xâm lược, nhưng lại cúi rạp mình tôn thờ quân cướp nước giết hại dân lành và in sách ca tụng, tung hô kẻ thù. 


Dù lời nói có nhiều đến bao nhiêu cũng không tả hết nỗi niềm đau đớn, xót xa não nuột của đồng bào thấy nước mất nhà tan trước mắt, mà vẫn còn những kẻ hèn ra tay làm tình báo dân vận cho TC, họ tham lam tiền bạc của kẻ thù mà ra sức phá hoại dân tộc gây chia rẽ, đả kích nhau, nuôi hờn căm vĩnh viễn không nhất tâm đoàn kết chống thù cứu nước.


Lực lượng giữ gìn đất nước hiện tại là BĐNDVN của chính quyền CSVN đương kim.  Nhưng cần thiết CSVN phải đổi mới toàn diện, thì họ sẽ có hậu thuẩn là CĐ/NVQG và toàn thể thế giới tự do. Chúng ta phải cương quyết cảm thông, rộng lượng và bài trừ bọn chó săn tình báo TC nằm vùng.  Dân tộc VN không hề cô đơn trước bành trướng Bắc Kinh, sau lưng chúng ta là cả lực lượng thế giới tự do, vì xâm lăng TC là hiểm họa chiến tranh cho cả thế giới không trừ quốc gia nào. 


Bởi vậy nếu đảng CSVN biết suy nghĩ lại mà nới rộng tối đa chính sách đổi mới đối với quốc nội và đổi mới trong thể chế cũng như trong ngoại giao với VNHN và thế giới, một đường lối ngoại giao cách mạng chân thành, thiết thật, công bằng khoáng đạt, một đường lối ngoại giao bình đẳng văn minh hợp thời ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản, không bị chi phối bởi một tâm lý lệ  thuộc nào để cứu nguy đất nước lúc lâm nguydầu Nhật Bản đã dầu hàng Hoa Kỳ, để có thể thi hành theo chiến lược của ông Ngô Đình Nhu, và  nhờ đó Việt Nam chúng ta mới có cơ hội may mắn cứu nền độc lập nước nhà thoát khỏi bàn tay ác độc của Tàu Phù lang sói xâm lăng.


Ai cũng hiểu rằng ngày nay Việt Nam đang có một CĐ/NVHN hùng mạnh, ảnh hưởng của lực lượng nầy trên thế giới tự do rất là lớn lao, nếu chúng ta biết làm phát triển và biết xử dụng !  Chính vì thế, xâm lăng Tàu chẳng phải chỉ đánh vào tinh thần và tâm lý chính quyền CSVN quốc nội, mà chúng còn dốc tâm đánh vào lực lượng NVQGHN.  Đối với TC việc đánh hải ngoại bằng tình báo dân vận là việc quan trọng nồng cốt để chia rẽ người Việt làm mất đi sức mạnh dân tộc.


Vì vậy hoạt động tình báo dân vận nằm vùng trong lòng CĐ NVHN của TC rất lớn, rất thâm độc; chúng tĩa rẽ từng người dần dần, tiêu diệt từng cá nhân đến đoàn thể NVHN mà TC cho là nguy hiểm đối với chúng là tiên quyết.  Vì vậy mà suốt 34 năm trời dân tộc VN đã mất không biết bao nhiêu tâm huyết thời gian để bảo vệ và xây dựng đất nước.  Trong mạng lưới  tình báo dân vận của TC qua tay những tay sai đắc lực khắp nơi nhất là trên DĐ tự do, TC đã gặt hái được quá nhiều kết quả như ý làm nền tảng cho cuộc xâm lược quốc nội.


Ngay báo chí Trung Hoa quốc gia hải ngoại cũng đã lên tiếng khuyên chính phủ Trung Cộng đừng làm gì khiến CĐ NVHN tức giận mà bắt tay đoàn kết với CQ/CSVN, trái lại phải quyết tâm gây chia rẽ hai lực lượng VN quốc nội và VN hải ngoại cùng thế giới tự do với mọi giá.  Năm 2000 báo chí Trung Hoa quốc gia đã lên tiếng rằng: “Nước Tàu rộng lớn vĩ đại, thá gì mấy km đất phía Bắc Việt Nam mà cũng đi chiếm, để cho người Tàu đi đến đâu trên thế giới cũng bị xỉ mặt mắng là quân cướp nước. Vả lại nếu dành lãnh thổ lãnh hải như vậy rủi ro NVQGHN nổi phẩn uất lên, họ đi đoàn kết với chính quyền trong nước thì có phải thiệt hại cho Trung Quốc biết bao không!!!”. Vì vậy bất cứ ai lên tiếng nói đến đoàn kết dân tộc để có sức mạnh cứu nước là bọn tình báo TC ầm ỉ lên tiếng dày đạp cực kỳ hung bạo trên các DĐ/NVHN với sự tiếp tay của các DĐ do TC trá hình là chống CSVN, tổ chức nằm vùng trong lòng CĐ/NVHN.


Mặt khác TC lại ảnh hưởng lên chính quyền CSVN bằng dụ dỗ, hăm dọa, hối lộ, trao đổi, đòi nợ…. ra lệnh CSVN ngày càng thẳng tay dùng vũ lực đánh đấm, bạc đãi nhân dân, gây thêm hận thù với lực lượng VNHN bằng cách ra tay làm bất cứ gì trái lòng dân trong nước, để đào thêm hận thù giữa CQ/ CSVN và CĐ/NVHN cũng như với thế giới tự do. Bằng cớ là vừa qua CQ/CSVN đã coi là kẻ thù tất cả mọi thành phần VN và thế giới tự do yêu chuộng “độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là khẩu hiệu đầu môi của CHXHCN Việt Nam, đường lối dẫn đến một ngoại giao hòa hưãn, công bằng và hữu nghị mà người ta mệnh danh là “diễn tiến hòa bình”.  Đó là một cách tiếp tục chương trình “ngao sò đánh nhau, ngư ông hưởng lợi” mà TC đã xử dụng và thành công suốt 34 năm nay với CQ/ CSVN cũng như đối với CĐ/VNHN và thế giới tự do, chẳng nơi đâu hèn kém nơi đâu một tí chút nào.


Trước đây như mọi người đều biết ít nhiều và nay TS. Phạm Văn Lưu đã nhắc lại rằng: (trích) Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, nhưng không phải để thật tình hòa hợp hòa giải mà là để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genève, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam.  Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh thế giới để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris, họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Nhưng ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sổ chính phủ Sài Gòn…Với những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác, hòa hợp hòa giải như vậy và cùng với một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá thì ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị(hết trích)


Chúng ta ai cũng đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi đặc biệt nhất… (trích) đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để củng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghèo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được.(hết trích) mà cứu nước Việt Nam thoát khỏi nanh vuốt xâm lăng của đế quốc Tàu.


Như vậy là đến ngày nay CS Tàu toàn thắng trên mọi mặt trận nội, ngoại và cả thế giới tự do trong việc xâm chiếm Việt Nam.  Dù rằng việc xâm chiếm Việt Nam là bắt đầu của hiểm họa chiến tranh cho toàn thế giới mà mộng ước của Trung quốc là làm bá chủ hoàn cầu.


TS. PVL viết (trích)…. Từ thời xưa các vua chúa vốn có tinh thần triều cống Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nề của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng sau đây: ‘Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử ... trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta.  Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó.  Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế….
  

… Tâm lý lệ  thuộc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng.  Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc.  Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go.  Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được.  Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, dựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều dọc như vậy.  Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển?  Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến.  Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.  Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn. Nhưng thực tế là vậy đó.  Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó.  Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam .  Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta.  Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa.  Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn.  Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam . Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.  Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều
.”(hết trích)


50 năm trước quân sư Ngô Đình Nhu đã đặt nặng sự hiện hữu của VNCH không phải chỉ trên bình diện chính kiến mà còn quan trọng hơn tất cả là trên bình diện độc lập quốc gia. Vì vậy chủ trương của TT Ngô Đình Diệm của nền Đệ I VNCH vào năm 1962 là bang giao hữu nghị với CSBV là một điều tối quan trọng để duy trì một VN chia đôi nhưng hùng mạnh đủ phương thế chống ngoại xâm.  Nếu VN cứ ở trạng thái hai Miền Nam Bắc như việc thiết lập một Liên Bang Việt Nam với sự nghiên cứu của TT Ngô Đình Diệm và chủ tịch Hồ Chí Minh thì Trung Công không bao giờ xấm chiếm VN được.   Đó là một điều khẳng định.

 
50 năm về trước ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã suy luận mà tiên tri : (trích) Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng.  Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.  Sở dĩ, tới ngày nay (1962), sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó.  Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc.  Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.  Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay,  (sẽ ) lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc.  Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này (1961-1962) phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho Miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212) ”(hết trích)


Còn Tiếp: Xin đón đọc: Phần Hai “Cẩm Nang” Ngô Đình Nhu Chống Xâm Lăng Tàu


Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh


Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire