samedi 24 octobre 2015




Kính thưa quý vị,


Thật là bất ngờ, đầu năm mới Nhâm Thìn nầy thật nhiều chuyện bất ngờ, làm cho tôi suy nghĩ rằng là tôi phải nói ra.  Vì có 10 cái bất ngờ lận.

1- Cái bất ngờ thứ nhất : Với một bài toán quá dễ dàng, cả thế giới công nhận, mà quý vị đã có lòng muốn đem nhau lên TV, thuê phòng lớn để tranh luận công khai trước toàn dân, trước toàn thế giới.  May mà Lữ Giang sai lời bỏ chạy.

2- Cái bất ngờ thứ 2:  Là tôi lấy làm lạ sao quý vị không thấy rằng khi đem vấn đề Ải Nam Quan và Hoàng Trường Sa ra tranh luận giữa trí thức VNHN với nhau như vậy là quý vị tự lấy dao đâm vào ngực mình, vào Tổ quốc và dân tộc VN, vào các vị Anh hùng dân tộc VN.  Quí vị không thấy là đã bán rẽ dân tộc, là sẽ làm trò cười cho cả thế giới kể cả Tàu hay sao?  Người ta sẽ cười vào mủi chúng ta.  Và đặc biệt là bọn Tàu Ô sẽ hết sức vui mừng vì chúng sẽ tự hào là chính NVHN đã đặt vấn đề Ải Nam Quan, Hoàng Trường Sa là của VN hay của Tàu.  Như vậy là chúng ta tự sát, chúng ta đã biếu không cho Tàu hàm hồ, tinh ranh ma quái từ 50% đến 80% lãnh thổ lãnh hải của Tổ tiên chúng ta rồi thì còn ăn nói gì nữa.  Thua là cái chắc.  Vì Tàu chỉ cần biện ra sự kiện nầy là nó thắng.  Tội lỗi không những của Lữ Giang mà cả của LS Dổ Thái Nhiên và Cựu DB. Mặc Giao và nhiều người nữa, nhưng thôi, bỏ qua.    

3- Cái bất ngờ thứ 3: Là bài viết trong mấy phút phản bác ông Lữ Giang của tôi, không ngờ là được nhiều vị tai mắt trên DĐ khen ngợi, tuyên dương.  Thĩnh thoảng những bài của tôi cũng được khen ngợi, cũng có nhiều khi được trân trọng ngay trên các DĐ, nhưng thường là được DĐ hay viết thư thẳng đến khen tôi không tiếc lời.  Tôi rất cảm động và biết ơn các vị ấy.  Thật là được an ủi để chống lại những lời chưởi rủa hổn láo, nhất là những lời mạt sát thật là tục tĩu dơ bẩn nhất trần gian của cặp NVHN CG dùng chung 1 Email là Trần Đình Ngọc và Ngô Tuý Phượng.

4- Cái bất ngờ thứ 4, là khi trả lời Lữ Giang, tôi không hề đọc những bài bên dưới của Lữ Giang và của các ông LS Đổ Thái Nhiên, CDB. Mặc Giao, nên khi đọc lại thì hởi ôi, thất bất ngờ là mấy vị “nền ôn” đã thách thức cãi nhau nhiều nhiều, thật là tội nghiệp.

5- Cái bất ngờ thứ 5: Tôi thật bất ngờ là Lữ Giang không hề biết gì về tài sản văn hoá của Việt Nam mà Tàu đã ăn cắp làm của riêng của nó, rồi sau đó lại đem dạy lại cho VN.

6- Cái bất ngờ thứ 6 là: Không những chỉ Lữ Giang mà rất nhiều, nhiều hay tuyệt đại đa số các vị tai mắt trên các DĐ hoàn toàn không biết gì về văn hoá tiền sử và sơ sử VN đã bị Tàu học lấy, bắt chước, ăn cướp, dành làm của mình, làm phát triển lên rồi đem dạy lại cho dân VN và dân tộc các nước ĐNÁ.  Việc học hỏi văn hoá đã được hệ thống hoá từ đời Khổng Tử với câu nói nổi tiếng “Thuật nhi bất tác” (chép lại chứ không hề sáng tạo ra) của khổng Tử cho đến Mã Viện cướp giựt và tiêu diệt, tôi sẽ chứng minh.  Đó là 2 nhân vật nổi tiếng, tiêu biểu của Tàu, nhân chứng lịch sử.  Còn sự thật Tàu học hỏi bắt chước, cướp phá văn hoá của VN như thế nào thì thật là khủng khiếp!  Nhiều nhiều vô cùng.  Tôi xin đưa một 2 ví dụ nhỏ xíu:  Có ai ngờ không, làm đậu hủ là 1 món ăn bổ dưỡng của dân VN nông nghiệp.  Tàu bắt chước, nhưng cái vần ‘Đ’ chúng không nói được, nên chúng nói trại ra là “Tàu phù”.  Cái bình gốm cắm hoa mai, miệng nhỏ của dân tộc VN, Tàu bắt chước. Nhưng cái vận ‘B’ chúng nói không được, nên chúng gọi là “Mai Pình”.     

7- Cái bất ngờ thứ 7 là:  Tôi không ngờ là quý vị (kể cả Lữ Giang) hoàn toàn không hiểu tôi.  Văn tôi viết rất bình dân và sáng sủa.  Tôi thương cho những bài tôi viết và đưa lên DĐ từ 5 năm nay một cách vô ích.  Tôi thương cho thân tôi và tôi thương cho quý vị quá chừng.  Đây là 1 vấn đề rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng nhiều đến vận mệnh đất nước.  Nếu quý vị hiểu tôi như hiểu cái bài ngắn ngủi tôi viết để chứng minh Ải Nam Quan, Hoàng Trường Sa là của VN, thì đất nước ta đã có dân chủ tự do nhận quyền lâu rồi.

8- Các bất ngờ thứ 8:  Đó là nổi niềm hy vọng của tôi trong năm Nhâm Thìn nầy, biết đâu chúng ta chẳng thưc hiện được TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN ĐA ĐẢNG ĐA NGUYÊN CHO VIỆT NAM mà Hoa Kỳ đã cố công tranh đấu cho được cho chúng ta nhưng không sao thành công (vì NVH không giúp Mỹ). 

9- Cái bất ngờ thứ 9 là tôi vừa sực nhớ ra một việc.  Xin đừng cho tôi là khoe khoang hay kiêu ngạo, khi tôi kể một sự thật, chuyện như sau đây:  Lúc nhỏ đi học ở trường nữ trung học Đồng Khánh Huế, tôi rất giỏi toán, được cả lớp mệnh danh “ Thanh chứng minh cục đá cũng ra”.  Lúc học trường  trung học đệ nhị cấp, học chung với con trai ở trường Thiện Hựu danh tiếng ở Huế, tôi giỏi toán hơn cả mấy tên con trai có tiếng giỏi toán nhất lớp.  Nên bọn chúng rất nể sợ tôi, chúng cho rằng chẳng có sự thật nào mà tôi không chứng minh ra được.  Cũng vì đầu óc tôi như vậy, nên đời tôi gặt hái toàn đau khổ, luôn luôn là đau khổ.  Thầy tử vi nào coi số tôi cũng nói như vậy.  Vì tôi cứ chứng minh những sự thật ra thì khó có người hiểu tôi, tin tôi, thương tôi được, trái lại có lắm người ‘gai’ ‘ghét’ ‘hiểu lầm’ tôi trầm trọng.  Nhưng khi đã tin tôi thì rất tin và quí tôi, loại người nầy rất hiếm, VN thì ít mà da trắng thì nhiều hơn, vì họ rất cởi mở.  Vì vậy, trên DĐ, những ai nói gì tào lao, hay sai sự thật quan trọng, nếu cần là tôi phản bác ngay.  Mà tôi đã phản bác thì tôi phải thắng trước công luận.  Như những bài tôi phản bác TS. Trần Chung Ngọc, Bảo Quốc Kiếm, Trần Tiện Long, TS. Nguyễn Phúc Liện, TS. Hồng Lĩnh Hồ Nam Trân, BS Nguyễn Văn Hoàng, TS. Stephen   

10- Và thứ 10 là tôi xin lỗi anh Lũ Giang vì bị bắt buộc phản biện người mà tôi rất quí mến tiếp về những câu nói mà tôi vừa đọc trong bài dưới đây, tuy tôi đã có ý muốn không viết bài trên DĐ nữa, vì vô ích quá, viết chỉ tốn công, chẳng ai thèm hiểu, thèm nghe, thèm đọc cho mình.


Tôi xin tạm nghĩ ở đây đã, vì tôi có việc quan trọng phải làm.  Xin quý vị chờ đợi tôi nếu thật tình quý vị muốn nghe tôi nói.  Tôi sẽ viết tiếp, giải thích rõ ràng những điều tôi nói trên.

Trưng Trắc   
 

Bac Ky Di Cu
13:27 (Il y a 17 heures)

à moi
BS Thanh viết một bài khá hay, lý luận sắc bén....
Chúc mừng.

BKDC/CTT

Nhưng, theo thiển ý, không cần phải lịch sự với tên gàn dở Tú Gàn đã ăn bả VC rồi khen thơm lắm! Bà đã từng rủa xả TS Liên không tiếc lời, mà bây giờ lại lịch sự với Tú Gàn là sao?
2012/1/28 T Nguyen <botoan2007@yahoo.com>


----- Forwarded Message -----
From: sandilock <qwaser.nguyen@gmail.com>
To: backydicu@gmail.com; bauxiteVN@gmail.com; Sent: Saturday, January 28, 2012 12:20 AM
Subject: Fwd: [PhungSuXaHoi] Tú Gàn ba xạo, lôi NHC vào để.. CHẠY LÀNG !
 
From: dr.thanh101@gmail.com Date: Fri, 27 Jan 2012 22:41:08 -0500 Subject: Re: [chinhnghia] Tú Gàn ba xạo, lôi NHC vào để.. CHẠY LÀNG !  Xin Kinh chuyen
NQD

Kính thưa đồng bào Nội Ngoại,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa Quý Chủ DĐ xin giúp phổ biến
Thưa ông Lữ Giang Nguyễn Cần


NÓI VỚI LỮ GIANG - ẢI NAM QUAN, HOÀNG SA TRƯỜNG SA LÀ CỦA AI ?  VIỆT NAM HAY CỦA TÀU ?!!!


Kính thưa đồng bào Nội Ngoại,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa Quý Chủ DĐ xin giúp phổ biến,
Thưa ông Lữ Giang,


Đến giờ này mà mấy ông “nền ôn” còn cãi nhau: Ải Nam Quan là của Tàu hay của ta ?!  Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam hay của Tàu. 

Trước đây ông Lữ Giang có nói Ải Nam Quan là của Tàu, tôi đã lên tiếng phản bác dữ dội với bằng chứng lịch sử rồi.  Vừa rồi đây lại thấy tên Hán Chệt nào lấy tên Aladin Nguyễn nói rằng Ải Nam quan là của Tàu vì nằm phía Nam nước Tàu. 

Nay lại nghe Lữ Giang muốn tranh luận với LS Đổ Thái Nhiên và cựu dân biểu Mạc Giao về Ải Nam Quan là của ai, Tàu hay Việt Nam ?  Còn thêm nữa, Hoàng Sa là của Tàu hay của ta.  Làm cho tôi dù có cảm tình với Lữ Giang, vẩn đặt nặng nghi vấn đến 99% rằng, Tàu thấy Lữ Giang có tài viết lách, có uy tín, với nhiều tài liệu của Mỹ nên đã thuê LG làm tay sai thật rồi.  Tôi nói vì lương tâm, với tâm lý và với bằng chứng sự thật, vì Lữ Giang không thể là người ngu si, ngu ngốc được.

Bây giờ tôi xin chứng minh lại một lần nữa, và yêu cầu anh Lữ Giang đừng nguỵ biện mà làm trò cười cho trẻ con.
 
Tử thời nước Nam Việt của Triệu Đà, rồi đến nước Lĩnh Nam của Trưng Vương, nước ta có 9 quận như sau:

1-   Hợp Phố (tức Quảng Ðông thuộc Tàu ngày nay),

2-   Thương Ngô và

3-   Uất Lâm (tức Quảng Tây thuộc Tàu ngày nay),

4-   Châu Nhai và,
5-     Nam Nhĩ và

6-   Nam Hải (tức đảo Hải Nam Tàu thuộc Tàu ngày nay),

7-   Giao Chỉ (Bắc Việt),

8-   Cửu Chân (Thanh Hóa),

9-   Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh) gồm 65 thành mà vua Trưng Trắc đã đánh chiếm lại được.


Khi Mã Viện đánh chiếm nước Lĩnh Nam, nó ở lại trên 1,5 năm trời.  Tìm tòi tài nguyên, tài liệu lịch sử, văn hoá, y tế, kinh tế, khoa học kỹ thuật,  nước ta, phần thì nó cướp đem về Tàu, phần thì nó đốt bỏ tiêu diệt.  Nó thâu góp hết trống đồng đúc ngựa chơi, và đúc cột đồng trụ với một mục đích vô cùng nhan hiểm. 


Nó nghiên cứu địa thế, và dùng cột đồng trụ chia cắt 9 quận nước ta làm 2 phần. Sáu (6) quận nước Lĩnh Nam giáp đất Tàu gồm:
1)   Hợp Phố,

2)   Thương Ngô,

3)   Uất Lâm,

4)   Châu Nhai,

5)   Nam Nhĩ,

6)   Nam Hải - thì nó sáp nhập vào đất nước Tàu.

Nước ta chỉ còn lại 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam nhò chút xíu, cụt ngủn, theo như 2 bản đồ sau đây.


      
Bản đồ nước Lĩnh Nam trước và sau khi Mã Viện
chiếm đất 6 quận, chỉ còn lại 3 quận

Nơi chốn Mã Viện trồng cột đồng trụ trở thành biên giới giữa ta và Tàu, nằm xa về hướng Bắc Ải Nam Quan hiện tại.  Nhưng suốt từ thế kỷ thứ 1 sau CN đến thế kỷ 13 thì biên giới của Mã Viện phân chia dần bị lấn về phương nam.... 


Vào thế kỷ 13, nhà Minh chiếm nước ta suốt 20 năm, Tàu đã lập nên Trấn Nam Quan hay Đại Nam Quan ngay chổ biên giới phía Bắc, chính Tàu là người vạch chỉ, xây Ải và ghi tên bên trên là “Chiêu Đức Đài” nhưng thường gọi tắt là Trấn Nam Quan.


Phía Nam, vua Việt Nam cũng cho xây sát vào đường chỉ biên giới Trấn Nam Quan của Tàu, phía trên thành ghi là “Ngưỡng đức Đài”. 


Hai toà “Chiêu Đức Đài” hướng về phía Bắc của Tàu và “Ngưỡng đức Đài” hướng về phía Nam của Việt Nam, hai đài của hai nước đâu lưng lại với nhau. 


Vì xây trong thế kỷ 13, thời gian nhà Minh đô hộ nước ta, nên Tàu gọi chung cả 2 đài là Ải Nam Quan, người mình cũng quen miệng, thành ra cũng gọi chung của 2 cửa quan đâu lưng cho nhau, phía Bắc của Tàu, phía Nam của ta là Ải Nam Quan.  Thật ra biên giới 2 nước là cùng một nơi sát lưng nhau. 


Đến thế kỷ 18, phía Tàu là nhà Thanh, phía Việt Nam là nhà Lê đều cùng sửa sang, tu bổ lại như hiện nay.


Đến đời Nhà Nguyễn đã được săn sóc giữ gìn và ghi chép lại rõ ràng rằng: Ải Nam Quan trở thành tên gọi chung, gồm hai phần kiến trúc:

1- Phần kiến trúc thứ nhất hướng về Bắc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 13, tu bổ lại thế kỷ 18 gồm có Cửa Quan và những cơ sở phụ thuộc phía Bắc gọi là ''Chiêu Ðức Ðài''.  Tàu còn gọi là Trấn Nam Quan hay Đại Nam Quan.
 
2- Phần kiến trúc thứ hai hướng về Nam do chính quyền Ðại Việt xây dựng gồm có ''Ngưỡng Ðức Ðài'' và hai dãy hành lang Tả Hữu, và có bia được lập vào thế kỷ 13, tu bổ lại vào thế kỷ 18 ghi địa giới hai nước. VN ta thì quen miệng gọi là Ải Nam quan. 
 
Danh từ ''Ải hay Đại Nam Quan'' do triều đình Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa của Tàu mở xuống hay đi xuống phía Nam cho Tàu; và cánh cửa mở để đi lên phương Bắc cho Việt Nam.  Như thế, khi xây dựng cửa Ải Nam Quan, triều đình Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới phía Nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan là Cửa Ải cực Bắc Trung Hoa.


Mỗi lần Sứ Quan một trong hai nước bước qua Cửa Ải là tiến vào địa phận nước bên kia.  Xin nhớ rằng, nơi biên giới là một đường chỉ gạch và một bên có một của thành.  Mổi lần có việc VN qua Tàu thì phải mở của thành của VN trước, rồi thành của Tàu sau, và ngược lại.


Vậy tại sao bây giờ chúng ta mất Ải Nam Quan là mất làm sao?

Phải chăng chúng ta mất cái cửa thành có ghi chữ là “Ngưỡng Đức Đài”.   
- Thưa không phải là vấn đề đơn giản như vậy.


Quân Tàu đã đánh nước ta năm 1979.  QĐNDVN đã chống lại dữ dội.  Nhưng không lấy lại được hết đến Ải Nam quan hay Ngưỡng Đức Đài.  Quân Tàu xâm lăng vẩn còn đóng quân chiếm giữ nhiều đất đai, tỉnh và lãnh thổ nước ta nằm vào phía nam Ải Nam Quan.  

Theo sự hiểu biết của tôi thì hình như ăn sâu vào địa phận nước ta từ 5km đến 7km với số đất đai là 85.000km2, mà QĐNDVN không lấy lại được.  Phải chi tình hình như vậy mãi đến ngày nay thì hay biết mấy, chúng ta rất dễ đòi lại.


Nhưng cho đến 10 năm sau khoảng 1999-2000, Tàu tìm cách mua chuộc chính quyền CSVN chính thức hoá dãy đất sát biên giới nước ta và Tàu ăn sâu vào địa giới nước ta từ 5 đến 7km chiều sâu, và chiều ngang thì chạy suốt từ Đông sang Tây nước ta, tất cả gồm trên 85.000km2 lãnh thổ sáp nhập vào đất Tàu, thay đổi cột mốc.  Đó là chưa kể lãnh hải và tính thành riêng khác nữa. Đó cũng là chưa kể Bải Tục Lâm và núi đồi Lão Sơn và các tỉnh Tàu thuê.


Sự kiện rõ ràng là như vậy, tại sao mấy vị “nền ông, đực rựa” học cao, biết rộng lại không hiểu mà cứ cho là Ải Nam Quan là của Tàu để cho nó chiếm đừng đòi lại, rồi lại cãi vả nhau như trẻ con.


Ông Lữ Giang còn thách thức nhau tranh cãi xem Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam hay của Tàu. Hởi ơi! Thật là nhục nhã.


Vậy tôi xin thêm ý kiến về Hoàng Trường Sa.  Xin không cần nhắc đến mọi chứng cứ lịch sử mà mọi người đã biết.  Cũng không cần nhắc đến cứ liệu văn hoá lịch sử mà ít người biết vì sách vờ mà tôi biết khi vào chiếm Miền nam quân CS đã tịch thu của tôi mà đem đi đốt hết. Ngay cả chính quyền VNCH và VNCS cũng không biết, tuy đã có ghi vào sách vở từ lâu đời trước xa hơn nhà Nguyễn hay nhà Lê mà là ti72 đời nhà lý, chính Lý Thường Kiệt xây bia trên Hoàng Sa.   

Trên Hoàng Sa có xây một tấm bia ghi là “Vạn Lý Ba Bình”.  Quý vị có biết chính Lý Thường Kiệt đã cho quân ra đóng và người cho xây tấm bia đó. Chuyện nầy có sách vở để lại, quyển của tôi bị tịch thu, đốt.  Chuyện nầy tôi nghe nhiều tiếng nói từ quốc nội ra đến hải ngoại….  Nhưng hiện tôi mất sách nên mất chứng liệu, còn đợi đi tìm….


Tôi xin hỏi quý vị, quân Tàu là quân tham lam, gian giảo độc ác, nếu Hoàng Sa là của nó, thì :

1- Mắc mớ gì chúng nó phải đổi chác viện trợ với CSBV trước kia, để nhờ Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm nhận tạm bợ bá vơ lãnh thổ của VNCH là của Tàu giúp cho mưu ăn cướp của bọn giặc xâm lăng.
    
2- Nếu Hoàng Sa là của Tàu, thì mắc mớ gì chúng phải đợi khi Mỹ rút khỏi VN, rồi Tàu mới mang cả một hạm đội vĩ đại đến đánh VNCH vào lúc VNCH đơn cô, thế cô, để chỉ chiếm một phần Hoàng Sa cái đã.  Rồi dần dà chiếm tất cả Hoàng Sa sau.

3- Nếu Hoàng Sa Trường Sa là của Tàu, sao nó chỉ chiếm HS mà không chiếm Trường Sa liền ngay.  Rồi phải đợi gần cả 40 năm sau mới chiếm dần Trường Sa. 

4- Cái bằng chứng Tàu ngang ngược vẻ cái lưỡi bò trên Biển Đông của VN, đòi chiếm Biển Đông là cốt lỏi của chúng, và chiếm tự ý chiếm trọn cả bờ biển VN đến sát đất liền và giết cả ngu phủ VN, và chiếm bờ biển của các nước ĐNÁ khá thì không đủ chứng minh là Tàu cướp Hoàng Sa và Trường Sa của VN cũng như cướp biển của thế giới hay không ?  Còn đòi cứ liệu gì nữa. Với thằng Tàu ăn cướp ăn nói điêu ngoa xão quyệt lếu láo! 

5- Sao không đặt vấn đề biển của VN là của Tàu luôn cho tiện. Hay ông Lữ Giang không đặt vấn đề nước Việt Nam, nước An Nam là của Tàu luôn cho tiện vì nước ta nằm về phía Nam của nước Tàu.

6- Đường lối của TC là đường lối bành trướng ngang ngược, láo khoét khiến cả thế giới phải ngạc nhiên khinh bỉ, lánh xa.

7- Vậy mà ông Lữ Giang Tú Gàn Nguyễn Cần, là thẩm phán, là luật sư mà lý luận như kẻ điên khùng vậy thì vô lý lắm, coi khinh dân Việt lắm.  Chỉ có thể vì nhận đơn đặt hàng cao giá lắm thôi.  Tôi biết ông Lữ Giang viết lách, lý luận sắc sảo lắm kia mà, TC thèm cây bút của ông LG NC quá đi rồi.  Có phải không?
 
8- Nhưng tiếc Lữ Giang là người có bộ óc thông minh, chịu khó, cần cù, lém lỉnh, làm nghề thậm phán, luật sư, lại là người CG, mà nở đem bán rẽ lương tâm, lòng yêu nước, yêu dân cho kẻ thù bằng những lý luận ẩu xĩ ẩu tả phĩnh con nít như vậy sao ?  Dân VN đâu đến nổi ngu mà nghe mấy trự “đực rựa” VGBN như vậy.


Tôi yêu cầu ông Nguyễn Cần là người CG có ăn học, thông minh, hiểu xa biết rộng, không lẻ ông ngu muội ôm mãi cái lý luận “Ải Nam Quan nằm phía Nam nước Tàu là của Tàu…”.  Chớ nên giả ngây thơ mà làm những việc vô lương tâm, bán rẽ linh hồn cho ma quỉ.   


Vì làm VGBN là giết cả một dân tộc, là tiêu diệt nòi giống của mình, tội lỗi lớn lắm, Chúa không bao giờ tha thứ, vì dân tộc VN không bao giờ tha thứ.


Ông TP Nguyễn Cần hãy mau quay trở lại, kẻo quá muộn.  Chính nghĩa Dân tộc VN luôn luôn khoan dung độ lượng.   


Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh


From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]

 
Vì bản chất dân tộc Việt?
Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “Chỉ là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt ‘xấu xa’” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: “Cua Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại, nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội gióng nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.-  Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.-  Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.-  Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.-  Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.-  Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6.  Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7.  Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off]. 5
8.-  Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.-  Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.-  Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại  sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh  hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? (Thanh : Láo) ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA
Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được. Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang


2012/1/27 Aladin Nguyen <quatloiphong7@yahoo.com>
 
:

"LÀM BÁO LÀ PHẢI CHỬI"  (lời của Tú Gàn Lữ Giang) !





Tú Gàn, ông là ai ?

Nguyễn Văn Lục

Tôi nhận được bài “Chỉ là chuyện giấc mơ do Tú Gàn gửi đến. Bài viết như thường lệ bàn lung tung nhiều chuyện. Sau đó thòng một vài chuyện chửi người này, người kia. Phải nhìn nhận ông là loại người chửi bới có hạng.

Vào năm 2007, mong ông còn nhớ, tôi đến nhà ông đôi lần chỉ để mong mỏi ông đừng viết chửi nữa. Thuyết phục không được, nói phải trái cũng không xong. Nói riết rồi ông đổ quạu nói, “
làm báo là phải chửi...” Hết ý kiến.

Mong muốn của tôi lúc bấy giờ là có được những tờ báo sạch bằng lối viết tử tế. Báo chí, truyền thông trong nước vì bị canh chừng, trù dập trở thành báo hèn vì nịnh. Đó là chuyện chẳng đặng đừng.

Tú Gàn
Truyền thông, báo chí hải ngoại thì được tự do viết. Nhưng học đòi dân chủ, tự do không xong. Tự do biến thành tự do chửi, chửi vung vít, chửi bất cứ ai mình muốn chửi. Báo chí tự biến mình thành báo bẩn vì chửi.

Tôi vẫn
chưa tìm ra câu trả lời là tại sao người ta lại phải chửi khi viết báo? Tôi cũng đặt câu hỏi như thế với ông Tú Gàn? Đã có lần để đáp trả Trần Chung Ngọc về những bài viết của ông ấy, tôi đặt câu hỏi là ông đã viết liên tục cả hằng 200 bài báo, đã có bao giờ ông viết được một bài tử tế chưa? Tôi cũng dùng câu hỏi ấy để hỏi Tú Gàn trước đây.

Cho đến nay, tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời từ các ông ấy.

Có lẽ, tôi phải dùng một lối tiếp cận gián tiếp bằng cách vay mượn các thuật ngữ: Quyền lực cứng, quyền lực mềm và quyền lực thông minh của Joseph Samuel Nye, Jr. trong phạm vi chính trị để tìm hiểu vấn đề truyền thông báo chí.(1)

1. Quyền lực cứng

Đây là thứ quyền lực mà từ nhiều thế kỷ trước đây người ta đã xử dụng để áp đảo kẻ khác theo nguyên tắc của Nicolo Machiavelli ở Ý là: Tốt hơn hết hãy làm cho đối phương sợ hơn là yêu mến. Đơn giản là mạnh được yếu thua. Cái nguyên tắc của Machiavelli sau này được chuyển dịch ra cái tương quan mà Marx gọi là tương quan Ông chủ-Thằng ở.

Cái nguyên tắc trên xem ra xưa rồi, vì thế mà Joseph Samuel Nye, Jr. cổ xúy cho thứ quyền lực mềm- đường đưa tới thành công trong phạm vi chính trị.

Trong phạm vi truyền thông báo chí như ở trong nước, chính quyền cộng sản xử dụng quyền lực cứng khi dùng bạo lực như đe dọa, kiểm soát, tù đầy để kiểm duyệt, kiểm soát truyền thông báo chí. Đó là cách bịt miệng dân.

Nhà nước dùng bạo lực răn đe biến người cầm bút trở thành những con vẹt biết nói tiếng người hoặc con chó bảo sủa thì sủa, bảo câm thì câm. Chúng biến người cầm bút thành thợ viết giống như thợ may, thợ vịn, v.v...

Ở Hải ngoại, đáng lẽ ra truyền thông báo chí phải là biểu tượng cho một sức mạnh tinh thần nhằm bảo vệ tự do, dân chủ. Sống trong những đất nước có truyền thống dân chủ lâu đời nhất.mà hình như chúng ta chưa học được bao nhiêu ngay cả những bài học vỡ lòng về dân chủ, về tự do. Nhưng một số nhỏ người cầm bút xử dụng ngòi bút như một thứ bạo lực trấn áp, bôi nhọ, mạ lỵ, chế diễu cá nhân. Phải nói là họ đã thành công. Phải nói là ông Tú Gàn đã thành công và bản thân ông ấy cũng hãnh diện về điều này.

Mục tiêu của sự bôi nhọ, chế diễu, dựng chuyện của những người cầm bút loại này nhắm chủ yếu vào một CON NGƯỜI cụ thể- nhắm vào ông A, ông X... có tên, có tuổi. Họ dùng thứ bạo lực ngôn ngữ đủ loại, phủ nhận và chà đạp lên giá trị nhân phẩm người khác, coi thường người đọc.


Càng chửi thì như thời giá càng lên cao. Vì nó thỏa mãn được cái thị dục hay cái thú tính của con người. Điều đó cũng cắt nghĩa được tại sao cũng có một số người thích đọc họ. Nó như một thứ thủ dâm tinh thần, một thứ sa đích chữ nghĩa.

Phần người bị chửi trở thành người trước dư luận, trở thành bung xung lãnh thẹo của người chửi. Phản ứng của họ thường là ẩn nhẫn, chịu đựng, không lên tiếng. Người bị chửi “ngậm tăm”.

Một trong ba nguyên tắc để đạt được quyền lực mềm theo Joseph Nye là phải có văn hóa. Những người làm báo chửi cho thấy họ thiếu văn hóa hay cùng lắm họ chỉ đạt được thứ văn hóa chửi của một xã hội còn bán khai.

Văn hóa chửi phá hủy mọi mối tương giao con người trong xã hội và ở bình diện đức lý, nó thiếu đạo đức vì không tôn trọng nhân phẩm người khác... Vì thế nó là thứ văn hóa phi văn hóa, thiếu “tính người”. Con người trở thành chó sói của người, cô đơn và cô độc.

Tôi có một thách thức nhỏ với ông Tú Gàn là ông tập họp được một bữa ăn độ 20 người. Xem ra không dễ với ông.

Chỉ xin vắn tắt được trích dẫn một vài công đoạn chửi của người có tay nghề, chửi tắt tiếng như sau của ông Tú Gàn.

Chửi cả làng, cả xóm: Chửi những người chống cộng
Riêng người Việt lưu vong chỉ có một chiêu duy nhất là “đánh phèng la”. Nhưng tiếng phèng la của người Việt chống cộng lại quá nhỏ nên lúc nào cũng phải nhờ anh Hai (ám chỉ Mỹ) tiếp ứng.. Nhưng anh Hai thuộc loại “siêu cộng sản” nên thỉnh thoảng chơi đá giò lái những đòn rất đau khiến phong trào chống cộng của người Việt lưu vong cứ bị đẩy lui dần.
Đánh phá miệt thị cộng đồng
Giới dân gian ở Bolsa, nơi thủ đô của VNCH nối dài, thường gọi các chương trình nói chuyện về Việt Nam của các “bình luận gia ta” trên các đài truyền hình là “Chương trình Chúng nó sắp sụp đổ rồi”. Mỗi khi thấy chương trình đó, họ thường tắt máy. Được hỏi tại sao, họ cho biết không cần nghe cũng biết họ sắp nói gì rồi. Các ông ấy cứ lượm một số chuyện tiêu cực trên các báo Công An Nhân Dân, Lao Động, Tuổi Trẻ... ở trong nước đem ra đọc hay kể lại rồi nguyền rủa Cộng Sản và đi đến kết luận: “Chúng nó gian ác, chúng nó ngu dốt, chúng nó sai lầm, chúng nó tham nhũng, chúng nó bán nước, chúng nó thất bại, chúng nói sắp sụp đổ rồi!” Mấy ông ấy cứ nói và viết như thế đã 37 năm rồi mà có thấy gì đâu? Nếu Cộng Sản mà chỉ như thế, làm sao nó đã cai trị được 54 năm? (2)
Chửi cả nhóm, nhất là công giáo mà ông Tú gàn gọi xách mé là Giao Điểm công giáo.
Nhất là nhóm Giao điểm công giáo, nhất định bắt người khác phải làm theo họ và cho rằng ai không làm theo là “đồng lõa với tội ác” hay hèn nhát. Sau vụ cha Lý bị bịt miệng, số thầy giảng kinh Koran cho Hội đồng giám mục Việt Nam càng gia tăng.
Chưa đủ, còn hài tên từng người
Đó là các Thầy Trần Phong Vũ, thầy nguyễn Xuân Tùng, thầy Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, thầy Trần Văn Cảo, thầy Nguyễn Tiến Cảnh vv..Tóm lại, nhóm Thầy giảng và nhóm Giao Điểm Công Giáo ở hải ngoại thiển cận, ngạo mạn và thích tác oai tác quái, đám này đã quậy phá giáo hội ở trong nước gấp trăm lần đám quốc doanh.” (3)
Bôi bẩn cá nhân linh mục Nguyễn văn Lý
Trong hồ sơ các giáo sĩ làm mật vụ cho Công An Cộng Sản ở Ba Lan, người ta khám phá ra Linh mục Hejmo Konrad Starslan có “hồ sơ hợp tác với mật vụ” dày đến 700 trang. Tôi tin rằng sau khi chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ, người ta sẽ khám phá ra “hồ sơ hợp tác” của Linh mục Lý cũng dày không thua gì Linh mục Starslan.Đừng vội tranh luận. Khi nào Cha Lý được nói chuyện bằng điện thoại trở lại, cứ hỏi ông ta tôi nói như vậy có đúng không. Tôi tin rằng ông ta không chối đâu.

Có lần báo cáo một linh mục xong, ông ta đến chỉ vào linh mục đó vào nói: “Khi nãy Cha có nói như vậy... Tôi đã báo cáo rồi!”

Linh mục Lý lại là người không bình thường, khi nắng khi mưa, sáng khác chiều khác. Với tình tình và óc phán đoán như thế mà được phong Phó Tế rồi Linh mục là một biệt lệ chưa từng có, nhưng chúng tôi chưa muốn tiết lộ. Công An thừa biết sẽ có một lúc họ không còn kiểm soát được hình thức tẩy chay và áp lực cần thiết khác. (4)
Đánh phá linh mục Nguyễn Văn Khải
Linh Mục Nguyễn Văn Khải là một Linh mục thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, bị triệu dụng qua Roma sau những biến động tại Hà Nội, đã đưa ra những lời tuyên bố về tình hình bi đát của Công Giáo Việt Nam như sau:

“Chính quyền sử dụng tất cả các lực lượng tùy ý họ, gồm các phương tiện truyền thông nhà nước, bộ máy chính trị, pháp luật và hệ thống giáo dục công cộng để ngăn chặn sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo bằng mọi giá”.

“Người Công Giáo ở mọi miền của Việt Nam được xem là công dân hạng hai, bị phân biệt đối xử tồi tệ trong đối xử pháp lý”...

Hiện nay, LM Khải đang được đưa đi tố cộng tại nhiều nơi ở Mỹ, từ Boston tới Orange County. Ông được một số tổ chức chống cộng đón nhận khá nồng nhiệt.

Trước khi nói đến “sứ mạng” mà LM Nguyễn Văn Khải đang muốn thực hiện, chúng ta cần biết rõ LM Khải là ai và ông đã hành động hay tuyên bố những gì.

NHÌN LẠI CON ĐƯỜNG ĐÃ ĐI QUA

Trong bài “Rao giảng Tin Đồn” được phổ biến trên báo chí và hệ thống Internet ngày 20.7.2010, dưới tiểu đề “Vượt qua các đàn anh”, chúng tôi có viết vài hàng về LM Nguyễn Văn Khải như sau:

“Một giáo sĩ trẻ nhưng bạo mồn bạo miệng nhất ở Việt Nam hiện nay là LM Nguyễn Văn Khải thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà (DCCTTH). Nhiều nguồn tin nói rằng ông là người chủ trương website NVCL.

“DCCT Thái Hà được thành lập từ năm 1926 nhưng tiếng tăm của Dòng được thế giới biết đến kể từ năm 2008 khi Dòng và Giáo Xứ Thái Hà phát động chiến dịch đòi nhà cầm quyền trả lại các tài sản bị cưởng chiếm. Tiếp theo là chiến dịch của nhóm Nữ Vương Công Lý (NVCL) ở Thái Hà phát động để đòi giữ Đức TGM Ngô Quang Kiệt ở lại Hà Nội. Trong cả hai chiến dịch này, LM Nguyễn Văn Khải, một linh mục trẻ, người làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, sinh ngày 5.10.1970, được phong linh mục ngày 25.9.2001, đã giữ vai trò “xung kích” rất táo bạo.

“Về “thành tích chống cộng”, nếu so với các đàn anh trong Dòng như các linh mục Nguyễn Văn Vàng, Trần Hữu Thanh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan.... thì “thành tích” của LM Khải quá nhỏ bé. Còn nếu so với các giáo sĩ khác trong các vụ Vinh Sơn (Mặt Trận Phục Quốc), Việt Tiến, Mặt Trận Liên Tôn, Trung Tâm Đắc Lộ, Dòng Đông Công..., thành tích của LM Khải chỉ là con số không. Nhưng nếu xét về phương diện chống lại Giáo quyền thì LM Khải đứng hàng đầu!

“Trong lễ nhận chức của ĐGM Nguyễn Văn Nhơn, LM Khải là một trong những người hướng dẫn đoàn biểu tình chống Đức Cha Nhơn và ủng hộ Đức Cha Kiệt. Đoàn biểu tình có hai bà cầm sẵn hai cái khay đựng quà trải khăn đỏ, còn một đám giáo dân đi theo la inh ỏi: “Chúng con yêu mến Đức Tổng”. “Xin Đức Tổng ở lại với chúng con”. Trong khi đó LM Khải cầm máy chụp hình bấm liên tục.”(5)
Tiếp tục dựng chuyện để bôi nhọ LM Nguyễn Văn Khải
Trong năm qua, LM DCCT Nguyễn Văn Khải từ Roma qua Orange County nói về Cộng Sản. Ông là người tổ chức biểu tình chống việc Toà Thánh bổ nhiệm Đức Cha Nguyễn Văn Nhơn làm TGM Hà Nội, bị Bề Trên Tổng Quyền triệu hồi qua Roma, ông phải vượt biên qua Lào rồi qua Thái Lan, từ đó được cấp giấy tờ đi Roma. Những điều ông nói về Cộng Sản đàn áp tôn giáo quá thô thiển. Nếu Cộng Sản mà vớ vẩn như thế làm sao họ “quốc doanh hoá” được cả Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài và Tin Lành? Ông nói về “Linh mục chui” nghe cũng rất vớ vẩn, nó không gióng những gì chúng tôi đã đọc và nghe các thầy đang được huấn luyện làm “linh mục chui” bị bắt giam đã kể lại khi chúng tôi ở trại Thanh Cẩm. Thế nhưng kiểu phát sóng như vậy đã đi đúng vào tần số mà một số các ông các bà muốn nghe, nên LM Khải cũng kiếm được vài chục ngàn bỏ túi trước khi trở lại Roma.(6)
Tất cả những điều ông Tú Gàn viết ở trên không hẳn là sai hết. Cộng đồng có gấu ó, có chia rẽ, cá nhân có tranh quyền lực. Nghĩa là có cả, nhưng không thể biến tất cả thành phường chèo được. Người thiện chí có thừa, người tốt việc tốt không thiếu. Điều chính yếu là ông trình bày cái đúng cái sai đan xen vào nhau, nhiều điều thực hư, không trưng dẫn bằng cớ. Sự dựng chuyện của ông thật nham hiểm.

Trong trường hợp linh mục Nguyễn Văn Khải, không có vấn đề bề trên cả dòng Chúa Cứu thế triệu hồi linh mục Nguyễn Văn Khải sang Roma. Càng không có vấn đề linh mục Nguyễn Văn Khải ẵm mấy chục ngàn đô là về Roma. Tôi đã hỏi những người trong ban tổ chức đón tiếp linh mục Nguyễn Văn Khải về hai vấn đề trên.

Ông Tú Gàn hoàn toàn đựng đứng và bịa chuyện. Và không lẽ mỗi điều ông viết lại cứ phải đi chứng minh?

Về việc đựng đứng, bịa chuyện này, tôi chỉ nhắc ông Tú Gàn là ông chắc không thể nào quên được vụ Bùi Bỉnh Bân. Đừng để tôi phải lôi chuyện này ra.

Trong trường hợp này, ông đã để lộ ra là một người thiếu lương tri, thiếu đạo đức và thiếu một tấm lòng. Ông Tú Gàn tự biến mình thành một thứ đao phủ, có cái đầu, nhưng lại thiếu một trái tim.

2. Quyền lực mềm

Theo Joseph Nye, quyền lực mềm là thứ quyền lực có khả năng tiếp cận lôi cuốn và thuyết phục người khác. Nó thể hiện trong những mối liên hệ của đời sống cá nhân với cá nhân, trong hôn nhân và cuối cùng trong thương mại, chính trị.

Với quyền lực mềm, người ta có thể đi đến hòa giải, thương lượng thay vì đối đầu.

Nhà văn, nhà xử dụng quyền lực mềm là cùng lúc xử dụng trái tim và cái đầu và tiến thêm một bước cao hơn là xử dùng quyền lực thông minh. Đây là thứ quyền lực mà Nye dành riêng trong một cuốn sách nhan đề: The Future of Power. Đó là việc định hướng chính sách đường lối, nghiên cứu đánh giá, tìm ra hướng đi mà không có tham vọng bá quyền.

Dựa trên nguyên tắc của quyền lực mềm, ông Tú Gàn có thể điện thoại, mời những người không đồng chính kiến với nhau ra quán cà phê nói chuyện, hay mời nhau một bữa ăn và tranh luận ngang ngửa.
Không ông đã không làm như thế. Ông nấp ẩn trong cái ghét tô của ông và chĩa nòng súng ra khỏi lỗ châu mai nhằm bắn những người đáng nhẽ là bạn, ngay cả là đồng chí, nay trở thành kẻ thù.

Dĩ chí có gặp nhau trong quán phở, nơi công cộng thì ông cũng tránh mặt.

Sách báo trở thành bãi chiến trường nã súng vào nhau như quân thù, quân hằn.

Đó cũng là hình ảnh có thực ngoài đời đôi khi ta bắt gặp một ông Tú gàn gương mặt xám đen, đầu hói, dáng đi lệch vai như người bị khuyết tật.

Dáng đi ấy biểu hiện một con người cô đơn thui thủi một mình đến tội nghiệp Tôi còn nhớ ông đến tòa báo trong ngày đầu tuần lặng lẽ vào phòng bà quản lý lấy tiền hoặc cầm dăm tờ báo mới, cắp nách rồi ra về.

Không chào hỏi ai. Ông như một cái bóng ma giữa mọi. người.

Cuộc đời như thế có đáng sống hay không đáng sống? Nguồn vui ở chỗ nào? Hay chỉ trừ những lúc ông lên đồng với chữ nghĩa?

Đã từ lâu, cứ kể từ năm 2006 đến nay, những bài viết của Tú Gàn có một chủ trương khá rõ rệt là:

- Miệt thị tất cả những tổ chức, những sinh hoạt, những cá nhân nào đang tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Hải ngoại.

- Mặt khác bôi xấu những nhân vật có uy tín trong nước, đặc biệt là các linh mục như LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, LM nguyễn Văn khải.

Nhất là kể từ khi chia tay với báo Sài Gòn Nhỏ. ông không có đất để viết. Chắc hẳn là nỗi mất mát lớn, cộng thêm nỗi hận oán. Ông chỉ còn viết trên báo mạng.

Ngòi bút của ông càng cay độc hơn, phóng túng hơn. Giọng điệu, quan điểm chính trị của ông như có đổi chiều, có thỏa hiệp. Nhiều bài viết và nội dung, cách trình bày cho người ta có cảm tưởng ông là người phát ngôn viên chính thức của chính quyền Hà Nội.

Một Tú Gàn không phải là một Tú Gàn như người nghĩ nữa.

Trước đây ông viết báo như người có cái đầu và không có trái tim. Nay cả tim lẫn đầu đều không có. Tội nghiệp cho môt kiếp người làm báo vào lúc cuối đời.
(1) Hai trong nhiều cuốn sách của Joseph Samuel Nye, Jr. là: “Soft power, the means to success in world politics” (2004) và “The Future of power” (2011).
(2) Tú gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid.
(3) Tú Gàn, 32 năm nhìn lại, diễn đàn Motgoctroi. Com
(4) Tú Gàn, Lại trúng kế rồi, Ibid.
(5) Tú Gàn, Công giáoVN tuyệt vọng, Ibid.
(6) Tú Gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid

From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "dothainhien@yahoo.com" <dothainhien@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 8:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Đỗ Thái Nhiên định "bề hội đồng"?
 
Đỗ Thái Nhiên định "bề hội đồng"?
    Đỗ Thái nhiên định bắt chước Nguyễn Hữu Chánh hay Việt Cộng, lập "Toà Án Nhân Dân" để "bề hội đồng". Tôi biết anh không tranh luận nổi với tôi mới tính trò "bề hội đồng" kiểu này. Đó là trò của Nguyễn Hữu Chánh hay của Việt Cộng, không phải là thái độ của kẻ sĩ. Nhưng tôi sẽ trình bày sự thật.
    Một triệu con số không cộng lại vẫn là con số không!
   
Lữ Giang

Do Thai Nhien <dothainhien@yahoo.com>
Sent: Sunday, January 22, 2012 8:16 AM
Subject: Ải Nam Quan là của Tàu hay của Việt Nam

 Kính gửi ông Tú Gàn

 Trong bài viết "Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa", ông Tú Gàn có nêu đề nghị: Tú Gàn và Đỗ Thái Nhiên sẽ tranh luận với nhau để biết xem "Ải Nam Quan là của Tàu hay của Viêt Nam". Theo ông Tú Gàn cuộc tranh luận sẽ diễn ra trên một đài truyền hình nào đó. Tôi rất hài lòng khi nhận được yêu cầu vừa kể của ông Tú Gàn. Tuy nhiên, tranh luận về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam đối với lãnh thổ Việt Nam cần phải được diễn ra trước sự chứng giám trực tiếp của khán thính giả Việt Nam. Đó là lòng tôn kính cần có và tự nhiên của mỗi người Việt Nam dành cho tập thể quần chúng Việt Nam. Mặt khác, tranh luận dân chủ không là cơ hội để những người khác biệt ý kiến thóa mạ lẫn nhau thậm tệ và vô trật tự. Tranh luận dân chủ có chủ đích làm cho công lý được sáng tỏ. Vì vậy, Tôi mong muốn là cuộc tranh luận giữa ông Tú Gàn và tôi cần dược diễn ra theo hai điều kiện sau đây:
      1)Địa điểm tranh luận phải là một hội trường đủ rộng để cho công chúng tự do dư thính và có ý kiến.
      2)Cuộc tranh luận cần được điều hợp bởi một ủy ban trọng tài do ông Tú Gàn và tôi thỏa thuân tuyển chọn
Tôi rất tin tưởng cuộc tranh luận sẽ nhanh chóng diễn ra.
       Nay kính
      Đỗ Thái Nhiên

  2/ Đối với Nhà văn Mặc Giao tức ông Phạm Hữu Giáo, Tú Gàn tức Lữ Giang tức Nguyễn Cần viết:
       ”, vậy anh nên chấp nhận tranh luận với tôi về đề tài chính trong bài của tôi là chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa theo quốc tế công pháp:  Tàu nói của Tàu, ta nói của ta, vậy Hoàng Sa và Trường Sa là của ai? Nếu anh đúng là một nhà ngoại giao và một luật gia, xin ra nói chuyện về vấn đề qua trọng này.

    Và ông Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao trả lời:
   
From: MacGiao <macgiao@shaw.ca>
Sent: Saturday, January 21, 2012 12:33 PM
Subject: RE: [chinhnghia] Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa!


     "Sự thật là như thế. Ông Nguyễn Cần còn muốn xuyên tạc gì thêm không? Tôi sẵn sàng nói rõ sự thật cho ông và cả làng nghe. Tôi khuyên ông nên giữ thái độ “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, đừng ra vẻ ta đây cái gì cũng biết, nhưng sự thật chẳng biết gì. Khi bị lật tẩy mắc cở lắm".

    Kính thưa quý vị,
   Như thế đã quá rõ ràng, Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần đã đưa ra lời thách thức tranh luận vào ngày Saturday, January 21, 2012 12:06 PM, và chỉ 27 phút sau, tức ngày Saturday, January 21, 2012 12:33 PM  ông Đỗ thái Nhiên tức LS Nguyễn Phương Minh, và cựu Dân Biểu Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao chấp nhận lời đề nghị tranh luận của Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
 Nhưng đã gần một tuần lễ trôi qua mà Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần im re hay còn gọi là nín khe!!! Chúng tôi đang chờ đợi sự trả lời từ  Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
   Nhân tiện, chúng tôi xin mạn phép kính nhờ quý vị "đoán thử xem" Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần có dám xuất hiện để tranh luận với các ông Đỗ Thái Nhiên (tức LS Nguyễn Phương Minh) và nhà văn Mặc Giao (tức cựu Dân Biểu VNCH Phạm Hữu Giáo) không?
   Trân trọng kính nhờ và kính mong công luận phán xét.
    Trần Việt
From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]
 
Vì bản chất dân tộc Việt?
Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “Chỉ là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt ‘xấu xa’” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: “Cua Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại, nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội gióng nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.-  Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.-  Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.-  Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.-  Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.-  Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6.  Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7.  Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off].
8.-  Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.-  Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.-  Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại  sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh  hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA
Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được. Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang

__._,_.___

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire