Kính thưa quý vị,
Hình HS Nữ học Đồng Khánh Huế Nguyễn Thị Thanh |
Thật là bất ngờ, đầu năm
mới Nhâm Thìn nầy thật nhiều chuyện bất ngờ, làm cho tôi suy nghĩ
rằng là tôi phải nói ra. Vì có 10
cái bất ngờ lận.
1- Cái bất ngờ thứ nhất
: Với một bài toán quá dễ dàng, cả thế giới công nhận, mà quý vị
đã có lòng muốn đem nhau lên TV, thuê phòng lớn để tranh luận công khai
trước toàn dân, trước toàn thế giới.
May mà Lữ Giang sai lời bỏ chạy.
2- Cái bất ngờ thứ
2: Là tôi lấy làm lạ sao quý vị
không thấy rằng khi đem vấn đề Ải Nam Quan và Hoàng Trường Sa ra tranh
luận giữa trí thức VNHN với nhau như vậy là quý vị tự lấy dao đâm
vào ngực mình, vào Tổ quốc và dân tộc VN, vào các vị Anh hùng dân
tộc VN. Quí vị không thấy là đã
bán rẽ dân tộc, là sẽ làm trò cười cho cả thế giới kể cả Tàu hay
sao? Người ta sẽ cười vào mủi
chúng ta. Và đặc biệt là bọn Tàu
Ô sẽ hết sức vui mừng vì chúng sẽ tự hào là chính NVHN đã đặt vấn
đề Ải Nam Quan, Hoàng Trường Sa là của VN hay của Tàu. Như vậy là chúng ta tự sát, chúng ta
đã biếu không cho Tàu hàm hồ, tinh ranh ma quái từ 50% đến 80% lãnh
thổ lãnh hải của Tổ tiên chúng ta rồi thì còn ăn nói gì nữa. Thua là cái chắc. Vì Tàu chỉ cần biện ra sự kiện nầy
là nó thắng. Tội lỗi không những
của Lữ Giang mà cả của LS Dổ Thái Nhiên và Cựu DB. Mặc Giao và
nhiều người nữa, nhưng thôi, bỏ qua.
3- Cái bất ngờ thứ 3: Là
bài viết trong mấy phút phản bác ông Lữ Giang của tôi, không ngờ là
được nhiều vị tai mắt trên DĐ khen ngợi, tuyên dương. Thĩnh thoảng những bài của tôi cũng
được khen ngợi, cũng có nhiều khi được trân trọng ngay trên các DĐ,
nhưng thường là được DĐ hay viết thư thẳng đến khen tôi không tiếc
lời. Tôi rất cảm động và biết ơn
các vị ấy. Thật là được an ủi để
chống lại những lời chưởi rủa hổn láo, nhất là những lời mạt sát
thật là tục tĩu dơ bẩn nhất trần gian của cặp NVHN CG dùng chung 1
Email là Trần Đình Ngọc và Ngô Tuý Phượng.
4- Cái bất ngờ thứ 4, là
khi trả lời Lữ Giang, tôi không hề đọc những bài bên dưới của Lữ
Giang và của các ông LS Đổ Thái Nhiên, CDB. Mặc Giao, nên khi đọc lại
thì hởi ôi, thất bất ngờ là mấy vị “nền ôn” đã thách thức cãi nhau
nhiều nhiều, thật là tội nghiệp.
5- Cái bất ngờ thứ 5: Tôi
thật bất ngờ là Lữ Giang không hề biết gì về tài sản văn hoá của
Việt Nam mà Tàu đã ăn cắp làm của riêng của nó, rồi sau đó lại đem
dạy lại cho VN.
6- Cái bất ngờ thứ 6 là:
Không những chỉ Lữ Giang mà rất nhiều, nhiều hay tuyệt đại đa số các
vị tai mắt trên các DĐ hoàn toàn không biết gì về văn hoá tiền sử
và sơ sử VN đã bị Tàu học lấy, bắt chước, ăn cướp, dành làm của
mình, làm phát triển lên rồi đem dạy lại cho dân VN và dân tộc các
nước ĐNÁ. Việc học hỏi văn hoá đã
được hệ thống hoá từ đời Khổng Tử với câu nói nổi tiếng “Thuật nhi bất
tác” (chép lại chứ không hề sáng tạo ra) của khổng Tử
cho đến Mã Viện cướp giựt và tiêu diệt, tôi sẽ chứng minh. Đó là 2 nhân vật nổi tiếng, tiêu biểu
của Tàu, nhân chứng lịch sử. Còn
sự thật Tàu học hỏi bắt chước, cướp phá văn hoá của VN như thế nào
thì thật là khủng khiếp! Nhiều
nhiều vô cùng. Tôi xin đưa một 2 ví
dụ nhỏ xíu: Có ai ngờ không, làm
đậu hủ là 1 món ăn bổ dưỡng của dân VN nông nghiệp. Tàu bắt chước, nhưng cái vần ‘Đ’ chúng
không nói được, nên chúng nói trại ra là “Tàu phù”. Cái bình gốm cắm hoa mai, miệng nhỏ
của dân tộc VN, Tàu bắt chước. Nhưng cái vận ‘B’ chúng nói không
được, nên chúng gọi là “Mai Pình”.
7- Cái bất ngờ thứ 7 là: Tôi không ngờ là quý vị (kể cả Lữ
Giang) hoàn toàn không hiểu tôi. Văn
tôi viết rất bình dân và sáng sủa.
Tôi thương cho những bài tôi viết và đưa lên DĐ từ 5 năm nay một
cách vô ích. Tôi thương cho thân tôi
và tôi thương cho quý vị quá chừng.
Đây là 1 vấn đề rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng nhiều đến
vận mệnh đất nước. Nếu quý vị
hiểu tôi như hiểu cái bài ngắn ngủi tôi viết để chứng minh Ải Nam
Quan, Hoàng Trường Sa là của VN, thì đất nước ta đã có dân chủ tự do
nhận quyền lâu rồi.
8- Các bất ngờ thứ
8: Đó là nổi niềm hy vọng của tôi
trong năm Nhâm Thìn nầy, biết đâu chúng ta chẳng thưc hiện được TỰ DO
DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN ĐA ĐẢNG ĐA NGUYÊN CHO VIỆT NAM mà Hoa Kỳ đã cố công
tranh đấu cho được cho chúng ta nhưng không sao thành công (vì NVH không
giúp Mỹ).
9- Cái bất ngờ thứ 9 là
tôi vừa sực nhớ ra một việc. Xin
đừng cho tôi là khoe khoang hay kiêu ngạo, khi tôi kể một sự thật, chuyện
như sau đây: Lúc nhỏ đi học ở
trường nữ trung học Đồng Khánh Huế, tôi rất giỏi toán, được cả lớp
mệnh danh “ Thanh chứng minh cục đá cũng ra”. Lúc học trường trung học đệ nhị cấp, học chung với con
trai ở trường Thiện Hựu danh tiếng ở Huế, tôi giỏi toán hơn cả mấy
tên con trai có tiếng giỏi toán nhất lớp.
Nên bọn chúng rất nể sợ tôi, chúng cho rằng chẳng có sự thật
nào mà tôi không chứng minh ra được.
Cũng vì đầu óc tôi như vậy, nên đời tôi gặt hái toàn đau khổ,
luôn luôn là đau khổ. Thầy tử vi
nào coi số tôi cũng nói như vậy.
Vì tôi cứ chứng minh những sự thật ra thì khó có người hiểu
tôi, tin tôi, thương tôi được, trái lại có lắm người ‘gai’ ‘ghét’ ‘hiểu
lầm’ tôi trầm trọng. Nhưng khi đã
tin tôi thì rất tin và quí tôi, loại người nầy rất hiếm, VN thì ít
mà da trắng thì nhiều hơn, vì họ rất cởi mở. Vì vậy, trên DĐ, những ai nói gì tào
lao, hay sai sự thật quan trọng, nếu cần là tôi phản bác ngay. Mà tôi đã phản bác thì tôi phải thắng
trước công luận. Như những bài tôi
phản bác TS. Trần Chung Ngọc, Bảo Quốc Kiếm, Trần Tiện Long, TS.
Nguyễn Phúc Liện, TS. Hồng Lĩnh Hồ Nam Trân, BS Nguyễn Văn Hoàng,
TS. Stephen
10- Và thứ 10 là tôi xin
lỗi anh Lũ Giang vì bị bắt buộc phản biện người mà tôi rất quí mến tiếp về
những câu nói mà tôi vừa đọc trong bài dưới đây, tuy tôi đã có ý
muốn không viết bài trên DĐ nữa, vì vô ích quá, viết chỉ tốn công,
chẳng ai thèm hiểu, thèm nghe, thèm đọc cho mình.
Tôi xin tạm nghĩ ở đây
đã, vì tôi có việc quan trọng phải làm.
Xin quý vị chờ đợi tôi nếu thật tình quý vị muốn nghe tôi
nói. Tôi sẽ viết tiếp, giải thích
rõ ràng những điều tôi nói trên.
Trưng Trắc
|
13:27 (Il y a 17 heures)
|
|||
|
BS
Thanh viết một bài khá hay, lý luận sắc bén....
Chúc mừng.
BKDC/CTT
Nhưng, theo thiển ý, không cần phải lịch sự với tên gàn dở Tú Gàn đã ăn bả VC rồi khen thơm lắm! Bà đã từng rủa xả TS Liên không tiếc lời, mà bây giờ lại lịch sự với Tú Gàn là sao?
Chúc mừng.
BKDC/CTT
Nhưng, theo thiển ý, không cần phải lịch sự với tên gàn dở Tú Gàn đã ăn bả VC rồi khen thơm lắm! Bà đã từng rủa xả TS Liên không tiếc lời, mà bây giờ lại lịch sự với Tú Gàn là sao?
-----
Forwarded Message -----
From: sandilock <qwaser.nguyen@gmail.com>
To: backydicu@gmail.com; bauxiteVN@gmail.com; Sent: Saturday, January 28, 2012 12:20 AM
Subject: Fwd: [PhungSuXaHoi] Tú Gàn ba xạo, lôi NHC vào để.. CHẠY LÀNG !
From: sandilock <qwaser.nguyen@gmail.com>
To: backydicu@gmail.com; bauxiteVN@gmail.com; Sent: Saturday, January 28, 2012 12:20 AM
Subject: Fwd: [PhungSuXaHoi] Tú Gàn ba xạo, lôi NHC vào để.. CHẠY LÀNG !
---------- Forwarded message
----------From: Nguyen Quang Duy <duyact@yahoo.com.au>Date: 2012/1/27Subject: [PhungSuXaHoi] Tú Gàn ba
xạo, lôi NHC vào để.. CHẠY LÀNG !To: "dr.thanh101@gmail.com"
<dr.thanh101@gmail.com>, "VN-Online@googlegroups.com" <VN-Online@googlegroups.com>, "chinhnghia@yahoogroups.com" <chinhnghia@yahoogroups.com>, "chinhnghiaviet@yahoogroups.com" <chinhnghiaviet@yahoogroups.com>, "Btgvqhvn-1@yahoogroups.com" <Btgvqhvn-1@yahoogroups.com>, "Btgvqhvn-2@yahoogroups.com" <Btgvqhvn-2@yahoogroups.com>, "PhungSuXaHoi@yahoogroups.com" <PhungSuXaHoi@yahoogroups.com>, "vietnamtudo@yahoogroups.com.au" <vietnamtudo@yahoogroups.com.au>, "DiendanDanToc@yahoogroups.com" <DiendanDanToc@yahoogroups.com>, "daploisongnui@yahoogroups.com" <daploisongnui@yahoogroups.com>, "DienDanPhuVan@yahoogroups.com" <DienDanPhuVan@yahoogroups.com>
From:
dr.thanh101@gmail.com Date: Fri, 27 Jan
2012 22:41:08 -0500 Subject: Re: [chinhnghia] Tú Gàn ba xạo, lôi NHC vào để..
CHẠY LÀNG ! Xin Kinh chuyen
NQD
Kính thưa đồng bào Nội
Ngoại,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa Quý Chủ DĐ
xin giúp phổ biến
Thưa ông Lữ Giang Nguyễn
Cần
NÓI VỚI LỮ GIANG - ẢI NAM QUAN, HOÀNG
SA TRƯỜNG SA LÀ CỦA AI ? VIỆT NAM HAY CỦA
TÀU ?!!!
Kính thưa đồng bào Nội Ngoại,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa Quý Chủ DĐ xin giúp phổ
biến,
Thưa ông Lữ
Giang,
Đến giờ này mà mấy ông
“nền ôn” còn cãi nhau: Ải Nam Quan là của Tàu hay của ta ?! Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam hay
của Tàu.
Trước đây ông Lữ Giang có
nói Ải Nam Quan là của Tàu, tôi đã lên tiếng phản bác dữ dội với
bằng chứng lịch sử rồi. Vừa rồi
đây lại thấy tên Hán Chệt nào lấy tên Aladin Nguyễn nói rằng Ải Nam
quan là của Tàu vì nằm phía Nam nước Tàu.
Nay lại nghe Lữ Giang muốn
tranh luận với LS Đổ Thái Nhiên và cựu dân biểu Mạc Giao về Ải Nam
Quan là của ai, Tàu hay Việt Nam ? Còn thêm nữa, Hoàng Sa là của
Tàu hay của ta. Làm cho tôi dù có
cảm tình với Lữ Giang, vẩn đặt nặng nghi vấn đến 99% rằng, Tàu thấy
Lữ Giang có tài viết lách, có uy tín, với nhiều tài liệu của Mỹ
nên đã thuê LG làm tay sai thật rồi.
Tôi nói vì lương tâm, với tâm lý và với bằng chứng sự thật,
vì Lữ Giang không thể là người ngu si, ngu ngốc được.
Bây giờ tôi xin chứng minh lại một lần
nữa, và yêu cầu anh Lữ Giang đừng nguỵ biện mà làm trò cười cho trẻ
con.
Tử thời nước Nam Việt
của Triệu Đà, rồi đến nước Lĩnh Nam của Trưng Vương, nước ta có 9
quận như sau:
1-
Hợp
Phố (tức Quảng Ðông thuộc Tàu ngày nay),
2-
Thương
Ngô và
3-
Uất
Lâm (tức Quảng Tây thuộc Tàu ngày nay),
4-
Châu
Nhai và,
5-
Nam Nhĩ và
6-
Nam
Hải (tức đảo Hải Nam Tàu thuộc Tàu ngày nay),
7-
Giao
Chỉ (Bắc Việt),
8-
Cửu
Chân (Thanh Hóa),
9-
Nhật
Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh) gồm 65 thành mà vua Trưng Trắc đã đánh chiếm
lại được.
Khi Mã Viện đánh chiếm
nước Lĩnh Nam, nó ở lại trên 1,5 năm trời. Tìm tòi tài nguyên,
tài liệu lịch sử, văn hoá, y tế, kinh tế, khoa học kỹ thuật, nước ta, phần thì nó cướp đem về Tàu,
phần thì nó đốt bỏ tiêu diệt. Nó
thâu góp hết trống đồng đúc ngựa chơi, và đúc cột đồng trụ với một
mục đích vô cùng nhan hiểm.
Nó nghiên cứu địa thế,
và dùng cột đồng trụ chia cắt 9 quận nước ta làm 2 phần. Sáu (6)
quận nước Lĩnh Nam giáp đất Tàu gồm:
1)
Hợp Phố,
2)
Thương Ngô,
3)
Uất Lâm,
4)
Châu Nhai,
5)
Nam Nhĩ,
6)
Nam Hải - thì nó sáp nhập vào
đất nước Tàu.
Nước ta chỉ còn lại 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
nhò chút xíu, cụt ngủn, theo như 2 bản đồ sau đây.
Bản đồ nước Lĩnh Nam trước và sau khi Mã Viện
chiếm đất 6 quận, chỉ còn lại 3 quận
Nơi chốn Mã Viện trồng cột đồng trụ trở thành biên giới giữa
ta và Tàu, nằm xa về hướng Bắc Ải Nam Quan hiện tại. Nhưng suốt từ thế kỷ thứ 1 sau CN đến
thế kỷ 13 thì biên giới của Mã Viện phân chia dần bị lấn về phương
nam....
Vào thế kỷ 13, nhà Minh chiếm nước ta suốt 20 năm, Tàu đã lập
nên Trấn Nam Quan hay Đại Nam Quan ngay chổ biên giới phía Bắc, chính
Tàu là người vạch chỉ, xây Ải và ghi tên bên trên là “Chiêu Đức Đài”
nhưng thường gọi tắt là Trấn Nam Quan.
Phía Nam, vua Việt Nam cũng cho xây sát vào đường chỉ biên giới
Trấn Nam Quan của Tàu, phía trên thành ghi là “Ngưỡng đức Đài”.
Hai toà “Chiêu Đức Đài” hướng về phía Bắc của Tàu và “Ngưỡng
đức Đài” hướng về phía Nam của Việt Nam, hai đài của hai nước đâu
lưng lại với nhau.
Vì xây trong thế kỷ 13, thời gian nhà Minh đô hộ nước ta, nên
Tàu gọi chung cả 2 đài là Ải Nam Quan, người mình cũng quen miệng,
thành ra cũng gọi chung của 2 cửa quan đâu lưng cho nhau, phía Bắc của
Tàu, phía Nam của ta là Ải Nam Quan.
Thật ra biên giới 2 nước là cùng một nơi sát lưng nhau.
Đến thế kỷ 18, phía Tàu là nhà Thanh, phía Việt Nam là nhà Lê
đều cùng sửa sang, tu bổ lại như hiện nay.
Đến đời Nhà Nguyễn đã được săn sóc giữ gìn và ghi chép lại rõ ràng rằng: Ải Nam Quan trở thành tên gọi chung, gồm hai phần
kiến trúc:
1- Phần kiến trúc thứ nhất hướng về Bắc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ
thế kỷ 13, tu bổ lại thế
kỷ 18 gồm có Cửa Quan và những cơ sở phụ thuộc phía Bắc gọi là ''Chiêu Ðức
Ðài''. Tàu còn gọi là Trấn Nam Quan hay Đại Nam
Quan.
2- Phần kiến trúc thứ hai hướng về
Nam do chính quyền Ðại Việt xây dựng gồm có ''Ngưỡng Ðức Ðài'' và hai dãy hành
lang Tả Hữu, và có bia được lập vào thế kỷ 13, tu bổ lại vào thế kỷ 18 ghi
địa giới hai nước. VN ta thì quen miệng gọi là Ải Nam quan.
Danh từ ''Ải hay Đại Nam Quan'' do triều đình Trung Hoa
đặt, có nghĩa là cánh cửa của Tàu mở xuống hay đi xuống phía Nam cho Tàu;
và cánh cửa mở để đi lên phương Bắc cho Việt Nam. Như thế, khi xây
dựng cửa Ải Nam Quan, triều đình Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới
phía Nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan là Cửa Ải cực Bắc Trung
Hoa.
Mỗi lần Sứ Quan một trong hai nước bước qua Cửa Ải là
tiến vào địa phận nước bên kia. Xin nhớ rằng,
nơi biên giới là một đường chỉ gạch và một bên có một của
thành. Mổi lần có việc VN qua Tàu thì phải mở của thành của
VN trước, rồi thành của Tàu sau, và ngược lại.
Vậy tại sao bây giờ chúng ta mất Ải Nam Quan là mất làm sao?
Phải chăng chúng ta mất cái cửa thành có ghi chữ là “Ngưỡng Đức
Đài”.
- Thưa không phải là vấn đề đơn giản như vậy.
Quân Tàu đã đánh nước ta năm 1979. QĐNDVN đã chống lại dữ
dội. Nhưng không lấy lại được hết
đến Ải Nam quan hay Ngưỡng Đức Đài.
Quân Tàu xâm lăng vẩn còn đóng quân chiếm giữ nhiều đất đai,
tỉnh và lãnh thổ nước ta nằm vào phía nam Ải Nam Quan.
Theo sự hiểu biết của tôi thì hình như ăn sâu vào địa phận nước
ta từ 5km đến 7km với số đất đai là 85.000km2, mà QĐNDVN không lấy lại
được. Phải chi tình hình như vậy
mãi đến ngày nay thì hay biết mấy, chúng ta rất dễ đòi lại.
Nhưng cho đến 10 năm sau khoảng 1999-2000, Tàu tìm cách mua chuộc chính
quyền CSVN chính thức hoá dãy đất sát biên giới nước ta và Tàu ăn
sâu vào địa giới nước ta từ 5 đến 7km chiều sâu, và chiều ngang thì
chạy suốt từ Đông sang Tây nước ta, tất cả gồm trên 85.000km2 lãnh thổ
sáp nhập vào đất Tàu, thay đổi cột mốc. Đó là chưa kể lãnh
hải và tính thành riêng khác nữa. Đó cũng là chưa kể Bải Tục Lâm
và núi đồi Lão Sơn và các tỉnh Tàu thuê.
Sự kiện rõ ràng là như vậy, tại sao mấy vị “nền ông, đực rựa”
học cao, biết rộng lại không hiểu mà cứ cho là Ải Nam Quan là của
Tàu để cho nó chiếm đừng đòi lại, rồi lại cãi vả nhau như trẻ con.
Ông Lữ Giang còn thách thức nhau tranh cãi xem Hoàng Sa và Trường
Sa là của Việt Nam hay của Tàu. Hởi ơi! Thật là nhục nhã.
Vậy tôi xin thêm ý kiến về Hoàng Trường Sa. Xin không cần
nhắc đến mọi chứng cứ lịch sử mà mọi người đã biết. Cũng không cần nhắc đến cứ liệu văn hoá
lịch sử mà ít người biết vì sách vờ mà tôi biết khi vào chiếm Miền nam
quân CS đã tịch thu của tôi mà đem đi đốt hết. Ngay cả chính quyền VNCH và
VNCS cũng không biết, tuy đã có ghi vào sách vở từ lâu đời trước xa
hơn nhà Nguyễn hay nhà Lê mà là ti72 đời nhà lý, chính Lý Thường Kiệt xây
bia trên Hoàng Sa.
Trên Hoàng Sa có xây một tấm bia ghi là “Vạn Lý Ba Bình”. Quý vị có biết chính Lý Thường Kiệt đã
cho quân ra đóng và người cho xây tấm bia đó. Chuyện nầy có sách vở để lại,
quyển của tôi bị tịch thu, đốt. Chuyện
nầy tôi nghe nhiều tiếng nói từ quốc nội ra đến hải ngoại…. Nhưng hiện tôi mất sách nên mất chứng liệu,
còn đợi đi tìm….
Tôi xin hỏi quý vị, quân Tàu là quân tham lam, gian giảo độc ác,
nếu Hoàng Sa là của nó, thì :
1- Mắc mớ gì chúng nó phải đổi chác viện trợ với CSBV trước
kia, để nhờ Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm nhận tạm bợ bá
vơ lãnh thổ của VNCH là của Tàu giúp cho mưu ăn cướp của bọn giặc
xâm lăng.
2- Nếu Hoàng Sa là của Tàu, thì mắc mớ gì chúng phải đợi khi
Mỹ rút khỏi VN, rồi Tàu mới mang cả một hạm đội vĩ đại đến đánh
VNCH vào lúc VNCH đơn cô, thế cô, để chỉ chiếm một phần Hoàng Sa cái
đã. Rồi dần dà chiếm tất cả Hoàng Sa sau.
3- Nếu Hoàng Sa Trường Sa là của Tàu, sao nó chỉ chiếm HS mà
không chiếm Trường Sa liền ngay. Rồi
phải đợi gần cả 40 năm sau mới chiếm dần Trường Sa.
4- Cái bằng chứng Tàu ngang ngược vẻ cái lưỡi bò trên Biển Đông
của VN, đòi chiếm Biển Đông là cốt lỏi của chúng, và chiếm tự ý
chiếm trọn cả bờ biển VN đến sát đất liền và giết cả ngu phủ VN,
và chiếm bờ biển của các nước ĐNÁ khá thì không đủ chứng minh là Tàu cướp
Hoàng Sa và Trường Sa của VN cũng như cướp biển của thế giới hay không ? Còn đòi cứ liệu gì nữa. Với thằng Tàu
ăn cướp ăn nói điêu ngoa xão quyệt lếu láo!
5- Sao không đặt vấn đề biển của VN là của Tàu luôn cho tiện. Hay
ông Lữ Giang không đặt vấn đề nước Việt Nam, nước An Nam là của Tàu
luôn cho tiện vì nước ta nằm về phía Nam của nước Tàu.
6- Đường lối của TC là đường lối bành trướng ngang ngược, láo
khoét khiến cả thế giới phải ngạc nhiên khinh bỉ, lánh xa.
7- Vậy mà ông Lữ Giang Tú Gàn Nguyễn Cần, là thẩm phán, là luật
sư mà lý luận như kẻ điên khùng vậy thì vô lý lắm, coi khinh dân Việt
lắm. Chỉ có thể vì nhận đơn đặt hàng cao giá lắm thôi. Tôi biết ông Lữ Giang viết lách, lý
luận sắc sảo lắm kia mà, TC thèm cây bút của ông LG NC quá đi
rồi. Có phải không?
8- Nhưng tiếc Lữ Giang là người có bộ óc thông minh, chịu khó,
cần cù, lém lỉnh, làm nghề thậm phán, luật sư, lại là người CG, mà
nở đem bán rẽ lương tâm, lòng yêu nước, yêu dân cho kẻ thù bằng những
lý luận ẩu xĩ ẩu tả phĩnh con nít như vậy sao ? Dân VN đâu đến nổi ngu mà nghe mấy trự
“đực rựa” VGBN như vậy.
Tôi yêu cầu ông Nguyễn Cần là người CG có ăn học, thông minh, hiểu
xa biết rộng, không lẻ ông ngu muội ôm mãi cái lý luận “Ải Nam Quan
nằm phía Nam nước Tàu là của Tàu…”.
Chớ nên giả ngây thơ mà làm những việc vô lương tâm, bán rẽ linh
hồn cho ma quỉ.
Vì làm VGBN là giết cả một dân tộc, là tiêu diệt nòi giống của
mình, tội lỗi lớn lắm, Chúa không bao giờ tha thứ, vì dân tộc VN
không bao giờ tha thứ.
Ông TP Nguyễn Cần hãy mau quay trở lại, kẻo quá muộn. Chính
nghĩa Dân tộc VN luôn luôn khoan dung độ lượng.
Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh
From: Lu Giang
<lugiang2003@yahoo.com>
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]
Vì bản chất dân tộc Việt?
Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào
nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và
nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “Chỉ là chuyện
giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt ‘xấu xa’”
của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái
như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác
nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp
thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: “Cua Mỹ khác hẳn cua
Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra
khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên
cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy
nắp!”
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã dám nói lên
những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại, nhưng một
số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội gióng nhau, tại sao Đại
Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái Lan,
Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì
“bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người
Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và
xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social
Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin
tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn
ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng
các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy
được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học
sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra,
người Việt không học vì lợi
ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những
công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up,
they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo
dài.
7. Tiết
kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn
phô trương).
[to save face or to show off]. 5
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong
những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính
này ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường
không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những
mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo
sức mạnh (một người có thể
hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng
việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it
poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ
người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã
phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên
những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử
này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số
đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải
biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi
mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự
mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn:
«Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong
nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời
đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng
có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu
về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải
chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng
chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về
việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có
nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời
nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm.
Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau
đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn
độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ
đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ
của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau
cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất
Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy.
Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo
Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ
đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà
ra. Mà người mình đã theo
học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua
kém Tàu, mà tự người mình
không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái
tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? (Thanh : Láo) ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay
cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học
của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì
mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước
được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như
thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những
điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người
ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người
mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc
gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn
Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà
người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà
Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một
cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần
của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn
toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100
năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương
Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ
tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá
sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn
quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu
chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên
thân người
Lắng tay nghe lấy
những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được
nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt
sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ
“giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã
đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là
đẹp mặt sau là ấm thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống
là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở
hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại
sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai
khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng
và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không
ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh
doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng
tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc
Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng
các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng
chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ
lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang
đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA
Trong khi người
Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi
ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những
đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang
hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia
trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không
theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều
dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính
cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản.
Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân
khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng
thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho
làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ
3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong
số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí
nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh
tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi
phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không
biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh
với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của
người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt
động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
“Khi bắt đầu bước
vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các
nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn
cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang
người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt
động như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức,
tuyển mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ.
Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và
sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu
một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật
mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả
mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc
kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở
ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ
hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt
ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County,
được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và
tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng
đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và
chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là
cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân
Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế,
nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố
Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì
được. Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không
ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt
đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu
bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để
bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một
tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa
ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng
Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh
John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu
xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai
chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã nhận
tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả
hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ
cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện
mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử
bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm
2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người
Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng
tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể
nên chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong người Việt có
những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh
ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt
biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này
quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do
vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu
nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt
thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2
người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá
khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào
một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang
:
"LÀM BÁO LÀ PHẢI CHỬI" (lời của Tú Gàn Lữ Giang) !
Tú Gàn, ông là ai ?
Nguyễn Văn Lục
Tôi nhận được bài “Chỉ là chuyện giấc mơ do
Tú Gàn gửi đến. Bài viết như thường lệ bàn lung tung nhiều chuyện. Sau
đó thòng một vài chuyện chửi người này, người kia. Phải nhìn nhận ông là loại
người chửi bới có hạng.
Vào năm 2007, mong ông còn nhớ, tôi đến nhà ông đôi lần chỉ để mong mỏi ông đừng viết chửi nữa. Thuyết phục không được, nói phải trái cũng không xong. Nói riết rồi ông đổ quạu nói, “làm báo là phải chửi...” Hết ý kiến.
Mong muốn của tôi lúc bấy giờ là có được những tờ báo sạch bằng lối viết tử tế. Báo chí, truyền thông trong nước vì bị canh chừng, trù dập trở thành báo hèn vì nịnh. Đó là chuyện chẳng đặng đừng.
Vào năm 2007, mong ông còn nhớ, tôi đến nhà ông đôi lần chỉ để mong mỏi ông đừng viết chửi nữa. Thuyết phục không được, nói phải trái cũng không xong. Nói riết rồi ông đổ quạu nói, “làm báo là phải chửi...” Hết ý kiến.
Mong muốn của tôi lúc bấy giờ là có được những tờ báo sạch bằng lối viết tử tế. Báo chí, truyền thông trong nước vì bị canh chừng, trù dập trở thành báo hèn vì nịnh. Đó là chuyện chẳng đặng đừng.
Tú Gàn
|
Truyền thông, báo chí hải ngoại thì được tự do viết. Nhưng học đòi
dân chủ, tự do không xong. Tự do biến thành tự do chửi, chửi vung vít, chửi bất
cứ ai mình muốn chửi. Báo chí tự biến mình thành báo bẩn vì chửi.
Tôi vẫn chưa tìm ra câu trả lời là tại sao người ta lại phải chửi khi viết báo? Tôi cũng đặt câu hỏi như thế với ông Tú Gàn? Đã có lần để đáp trả Trần Chung Ngọc về những bài viết của ông ấy, tôi đặt câu hỏi là ông đã viết liên tục cả hằng 200 bài báo, đã có bao giờ ông viết được một bài tử tế chưa? Tôi cũng dùng câu hỏi ấy để hỏi Tú Gàn trước đây.
Cho đến nay, tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời từ các ông ấy.
Có lẽ, tôi phải dùng một lối tiếp cận gián tiếp bằng cách vay mượn các thuật ngữ: Quyền lực cứng, quyền lực mềm và quyền lực thông minh của Joseph Samuel Nye, Jr. trong phạm vi chính trị để tìm hiểu vấn đề truyền thông báo chí.(1)
1. Quyền lực cứng
Đây là thứ quyền lực mà từ nhiều thế kỷ trước đây người ta đã xử dụng để áp đảo kẻ khác theo nguyên tắc của Nicolo Machiavelli ở Ý là: Tốt hơn hết hãy làm cho đối phương sợ hơn là yêu mến. Đơn giản là mạnh được yếu thua. Cái nguyên tắc của Machiavelli sau này được chuyển dịch ra cái tương quan mà Marx gọi là tương quan Ông chủ-Thằng ở.
Cái nguyên tắc trên xem ra xưa rồi, vì thế mà Joseph Samuel Nye, Jr. cổ xúy cho thứ quyền lực mềm- đường đưa tới thành công trong phạm vi chính trị.
Trong phạm vi truyền thông báo chí như ở trong nước, chính quyền cộng sản xử dụng quyền lực cứng khi dùng bạo lực như đe dọa, kiểm soát, tù đầy để kiểm duyệt, kiểm soát truyền thông báo chí. Đó là cách bịt miệng dân.
Nhà nước dùng bạo lực răn đe biến người cầm bút trở thành những con vẹt biết nói tiếng người hoặc con chó bảo sủa thì sủa, bảo câm thì câm. Chúng biến người cầm bút thành thợ viết giống như thợ may, thợ vịn, v.v...
Ở Hải ngoại, đáng lẽ ra truyền thông báo chí phải là biểu tượng cho một sức mạnh tinh thần nhằm bảo vệ tự do, dân chủ. Sống trong những đất nước có truyền thống dân chủ lâu đời nhất.mà hình như chúng ta chưa học được bao nhiêu ngay cả những bài học vỡ lòng về dân chủ, về tự do. Nhưng một số nhỏ người cầm bút xử dụng ngòi bút như một thứ bạo lực trấn áp, bôi nhọ, mạ lỵ, chế diễu cá nhân. Phải nói là họ đã thành công. Phải nói là ông Tú Gàn đã thành công và bản thân ông ấy cũng hãnh diện về điều này.
Mục tiêu của sự bôi nhọ, chế diễu, dựng chuyện của những người cầm bút loại này nhắm chủ yếu vào một CON NGƯỜI cụ thể- nhắm vào ông A, ông X... có tên, có tuổi. Họ dùng thứ bạo lực ngôn ngữ đủ loại, phủ nhận và chà đạp lên giá trị nhân phẩm người khác, coi thường người đọc.
Càng chửi thì như thời giá càng lên cao. Vì nó thỏa mãn được cái thị dục hay cái thú tính của con người. Điều đó cũng cắt nghĩa được tại sao cũng có một số người thích đọc họ. Nó như một thứ thủ dâm tinh thần, một thứ sa đích chữ nghĩa.
Phần người bị chửi trở thành người trước dư luận, trở thành bung xung lãnh thẹo của người chửi. Phản ứng của họ thường là ẩn nhẫn, chịu đựng, không lên tiếng. Người bị chửi “ngậm tăm”.
Một trong ba nguyên tắc để đạt được quyền lực mềm theo Joseph Nye là phải có văn hóa. Những người làm báo chửi cho thấy họ thiếu văn hóa hay cùng lắm họ chỉ đạt được thứ văn hóa chửi của một xã hội còn bán khai.
Văn hóa chửi phá hủy mọi mối tương giao con người trong xã hội và ở bình diện đức lý, nó thiếu đạo đức vì không tôn trọng nhân phẩm người khác... Vì thế nó là thứ văn hóa phi văn hóa, thiếu “tính người”. Con người trở thành chó sói của người, cô đơn và cô độc.
Tôi có một thách thức nhỏ với ông Tú Gàn là ông tập họp được một bữa ăn độ 20 người. Xem ra không dễ với ông.
Chỉ xin vắn tắt được trích dẫn một vài công đoạn chửi của người có tay nghề, chửi tắt tiếng như sau của ông Tú Gàn.
Chửi cả làng, cả xóm: Chửi những người chống cộng
Tôi vẫn chưa tìm ra câu trả lời là tại sao người ta lại phải chửi khi viết báo? Tôi cũng đặt câu hỏi như thế với ông Tú Gàn? Đã có lần để đáp trả Trần Chung Ngọc về những bài viết của ông ấy, tôi đặt câu hỏi là ông đã viết liên tục cả hằng 200 bài báo, đã có bao giờ ông viết được một bài tử tế chưa? Tôi cũng dùng câu hỏi ấy để hỏi Tú Gàn trước đây.
Cho đến nay, tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời từ các ông ấy.
Có lẽ, tôi phải dùng một lối tiếp cận gián tiếp bằng cách vay mượn các thuật ngữ: Quyền lực cứng, quyền lực mềm và quyền lực thông minh của Joseph Samuel Nye, Jr. trong phạm vi chính trị để tìm hiểu vấn đề truyền thông báo chí.(1)
1. Quyền lực cứng
Đây là thứ quyền lực mà từ nhiều thế kỷ trước đây người ta đã xử dụng để áp đảo kẻ khác theo nguyên tắc của Nicolo Machiavelli ở Ý là: Tốt hơn hết hãy làm cho đối phương sợ hơn là yêu mến. Đơn giản là mạnh được yếu thua. Cái nguyên tắc của Machiavelli sau này được chuyển dịch ra cái tương quan mà Marx gọi là tương quan Ông chủ-Thằng ở.
Cái nguyên tắc trên xem ra xưa rồi, vì thế mà Joseph Samuel Nye, Jr. cổ xúy cho thứ quyền lực mềm- đường đưa tới thành công trong phạm vi chính trị.
Trong phạm vi truyền thông báo chí như ở trong nước, chính quyền cộng sản xử dụng quyền lực cứng khi dùng bạo lực như đe dọa, kiểm soát, tù đầy để kiểm duyệt, kiểm soát truyền thông báo chí. Đó là cách bịt miệng dân.
Nhà nước dùng bạo lực răn đe biến người cầm bút trở thành những con vẹt biết nói tiếng người hoặc con chó bảo sủa thì sủa, bảo câm thì câm. Chúng biến người cầm bút thành thợ viết giống như thợ may, thợ vịn, v.v...
Ở Hải ngoại, đáng lẽ ra truyền thông báo chí phải là biểu tượng cho một sức mạnh tinh thần nhằm bảo vệ tự do, dân chủ. Sống trong những đất nước có truyền thống dân chủ lâu đời nhất.mà hình như chúng ta chưa học được bao nhiêu ngay cả những bài học vỡ lòng về dân chủ, về tự do. Nhưng một số nhỏ người cầm bút xử dụng ngòi bút như một thứ bạo lực trấn áp, bôi nhọ, mạ lỵ, chế diễu cá nhân. Phải nói là họ đã thành công. Phải nói là ông Tú Gàn đã thành công và bản thân ông ấy cũng hãnh diện về điều này.
Mục tiêu của sự bôi nhọ, chế diễu, dựng chuyện của những người cầm bút loại này nhắm chủ yếu vào một CON NGƯỜI cụ thể- nhắm vào ông A, ông X... có tên, có tuổi. Họ dùng thứ bạo lực ngôn ngữ đủ loại, phủ nhận và chà đạp lên giá trị nhân phẩm người khác, coi thường người đọc.
Càng chửi thì như thời giá càng lên cao. Vì nó thỏa mãn được cái thị dục hay cái thú tính của con người. Điều đó cũng cắt nghĩa được tại sao cũng có một số người thích đọc họ. Nó như một thứ thủ dâm tinh thần, một thứ sa đích chữ nghĩa.
Phần người bị chửi trở thành người trước dư luận, trở thành bung xung lãnh thẹo của người chửi. Phản ứng của họ thường là ẩn nhẫn, chịu đựng, không lên tiếng. Người bị chửi “ngậm tăm”.
Một trong ba nguyên tắc để đạt được quyền lực mềm theo Joseph Nye là phải có văn hóa. Những người làm báo chửi cho thấy họ thiếu văn hóa hay cùng lắm họ chỉ đạt được thứ văn hóa chửi của một xã hội còn bán khai.
Văn hóa chửi phá hủy mọi mối tương giao con người trong xã hội và ở bình diện đức lý, nó thiếu đạo đức vì không tôn trọng nhân phẩm người khác... Vì thế nó là thứ văn hóa phi văn hóa, thiếu “tính người”. Con người trở thành chó sói của người, cô đơn và cô độc.
Tôi có một thách thức nhỏ với ông Tú Gàn là ông tập họp được một bữa ăn độ 20 người. Xem ra không dễ với ông.
Chỉ xin vắn tắt được trích dẫn một vài công đoạn chửi của người có tay nghề, chửi tắt tiếng như sau của ông Tú Gàn.
Chửi cả làng, cả xóm: Chửi những người chống cộng
Riêng người Việt lưu vong chỉ có một chiêu duy nhất là “đánh phèng
la”. Nhưng tiếng phèng la của người Việt chống cộng lại quá nhỏ nên lúc nào
cũng phải nhờ anh Hai (ám chỉ Mỹ) tiếp ứng.. Nhưng anh Hai thuộc loại “siêu
cộng sản” nên thỉnh thoảng chơi đá giò lái những đòn rất đau khiến phong trào
chống cộng của người Việt lưu vong cứ bị đẩy lui dần.
Đánh phá miệt thị cộng đồng
Giới dân gian ở Bolsa, nơi thủ đô của VNCH nối dài, thường gọi các
chương trình nói chuyện về Việt Nam
của các “bình luận gia ta” trên các đài truyền hình là “Chương trình Chúng nó sắp sụp đổ rồi”.
Mỗi khi thấy chương trình đó, họ thường tắt máy. Được hỏi tại sao, họ cho biết
không cần nghe cũng biết họ sắp nói gì rồi. Các ông ấy cứ lượm một số chuyện
tiêu cực trên các báo Công An Nhân Dân, Lao Động, Tuổi Trẻ... ở trong nước đem
ra đọc hay kể lại rồi nguyền rủa Cộng Sản và đi đến kết luận: “Chúng nó gian ác,
chúng nó ngu dốt, chúng nó sai lầm, chúng nó tham nhũng, chúng nó bán nước,
chúng nó thất bại, chúng nói sắp sụp đổ rồi!” Mấy ông ấy cứ nói và viết như thế
đã 37 năm rồi mà có thấy gì đâu? Nếu Cộng Sản mà chỉ như thế, làm sao nó đã cai
trị được 54 năm? (2)
Chửi cả nhóm, nhất là công giáo mà ông Tú gàn gọi xách mé là Giao
Điểm công giáo.
Nhất là nhóm Giao điểm công giáo, nhất định bắt người khác phải
làm theo họ và cho rằng ai không làm theo là “đồng lõa với tội ác” hay hèn
nhát. Sau vụ cha Lý bị bịt miệng, số thầy giảng kinh Koran cho Hội đồng giám
mục Việt Nam
càng gia tăng.
Chưa đủ, còn hài tên từng người
Đó là các Thầy Trần Phong Vũ, thầy nguyễn Xuân Tùng, thầy Duyên
Lãng Hà Tiến Nhất, thầy Trần Văn Cảo, thầy Nguyễn Tiến Cảnh vv..Tóm lại, nhóm
Thầy giảng và nhóm Giao Điểm
Công Giáo ở hải ngoại thiển cận, ngạo mạn và thích tác oai tác quái, đám này đã
quậy phá giáo hội ở trong nước gấp trăm lần đám quốc doanh.” (3)
Bôi bẩn cá nhân linh mục Nguyễn văn Lý
Trong hồ sơ các giáo sĩ làm mật vụ cho Công An Cộng Sản ở Ba Lan,
người ta khám phá ra Linh mục Hejmo Konrad Starslan có “hồ sơ hợp tác với mật
vụ” dày đến 700 trang. Tôi tin rằng sau khi chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ,
người ta sẽ khám phá ra “hồ sơ hợp tác” của Linh mục Lý cũng dày không thua gì
Linh mục Starslan.Đừng vội tranh luận. Khi nào Cha Lý được nói chuyện bằng điện
thoại trở lại, cứ hỏi ông ta tôi nói như vậy có đúng không. Tôi tin rằng ông ta
không chối đâu.
Có lần báo cáo một linh mục xong, ông ta đến chỉ vào linh mục đó vào nói: “Khi nãy Cha có nói như vậy... Tôi đã báo cáo rồi!”
Linh mục Lý lại là người không bình thường, khi nắng khi mưa, sáng khác chiều khác. Với tình tình và óc phán đoán như thế mà được phong Phó Tế rồi Linh mục là một biệt lệ chưa từng có, nhưng chúng tôi chưa muốn tiết lộ. Công An thừa biết sẽ có một lúc họ không còn kiểm soát được hình thức tẩy chay và áp lực cần thiết khác. (4)
Có lần báo cáo một linh mục xong, ông ta đến chỉ vào linh mục đó vào nói: “Khi nãy Cha có nói như vậy... Tôi đã báo cáo rồi!”
Linh mục Lý lại là người không bình thường, khi nắng khi mưa, sáng khác chiều khác. Với tình tình và óc phán đoán như thế mà được phong Phó Tế rồi Linh mục là một biệt lệ chưa từng có, nhưng chúng tôi chưa muốn tiết lộ. Công An thừa biết sẽ có một lúc họ không còn kiểm soát được hình thức tẩy chay và áp lực cần thiết khác. (4)
Đánh phá linh mục Nguyễn Văn Khải
Linh Mục Nguyễn Văn Khải là một Linh mục thuộc Dòng Chúa Cứu Thế
Thái Hà, bị triệu dụng qua Roma sau những biến động tại Hà Nội, đã đưa ra những
lời tuyên bố về tình hình bi đát của Công Giáo Việt Nam như sau:
“Chính quyền sử dụng tất cả các lực lượng tùy ý họ, gồm các phương tiện truyền thông nhà nước, bộ máy chính trị, pháp luật và hệ thống giáo dục công cộng để ngăn chặn sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo bằng mọi giá”.
“Người Công Giáo ở mọi miền của ViệtNam
được xem là công dân hạng hai, bị phân biệt đối xử tồi tệ trong đối xử pháp
lý”...
Hiện nay, LM Khải đang được đưa đi tố cộng tại nhiều nơi ở Mỹ, từBoston tới Orange
County . Ông được một số
tổ chức chống cộng đón nhận khá nồng nhiệt.
Trước khi nói đến “sứ mạng” mà LM Nguyễn Văn Khải đang muốn thực hiện, chúng ta cần biết rõ LM Khải là ai và ông đã hành động hay tuyên bố những gì.
NHÌN LẠI CON ĐƯỜNG ĐÃ ĐI QUA
Trong bài “Rao giảng Tin Đồn” được phổ biến trên báo chí và hệ thống Internet ngày 20.7.2010, dưới tiểu đề “Vượt qua các đàn anh”, chúng tôi có viết vài hàng về LM Nguyễn Văn Khải như sau:
“Một giáo sĩ trẻ nhưng bạo mồn bạo miệng nhất ở Việt Nam hiện nay là LM Nguyễn Văn Khải thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà (DCCTTH). Nhiều nguồn tin nói rằng ông là người chủ trương website NVCL.
“DCCT Thái Hà được thành lập từ năm 1926 nhưng tiếng tăm của Dòng được thế giới biết đến kể từ năm 2008 khi Dòng và Giáo Xứ Thái Hà phát động chiến dịch đòi nhà cầm quyền trả lại các tài sản bị cưởng chiếm. Tiếp theo là chiến dịch của nhóm Nữ Vương Công Lý (NVCL) ở Thái Hà phát động để đòi giữ Đức TGM Ngô Quang Kiệt ở lại Hà Nội. Trong cả hai chiến dịch này, LM Nguyễn Văn Khải, một linh mục trẻ, người làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, sinh ngày 5.10.1970, được phong linh mục ngày 25.9.2001, đã giữ vai trò “xung kích” rất táo bạo.
“Về “thành tích chống cộng”, nếu so với các đàn anh trong Dòng như các linh mục Nguyễn Văn Vàng, Trần Hữu Thanh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan.... thì “thành tích” của LM Khải quá nhỏ bé. Còn nếu so với các giáo sĩ khác trong các vụ Vinh Sơn (Mặt Trận Phục Quốc), Việt Tiến, Mặt Trận Liên Tôn, Trung Tâm Đắc Lộ, Dòng Đông Công..., thành tích của LM Khải chỉ là con số không. Nhưng nếu xét về phương diện chống lại Giáo quyền thì LM Khải đứng hàng đầu!
“Trong lễ nhận chức của ĐGM Nguyễn Văn Nhơn, LM Khải là một trong những người hướng dẫn đoàn biểu tình chống Đức Cha Nhơn và ủng hộ Đức Cha Kiệt. Đoàn biểu tình có hai bà cầm sẵn hai cái khay đựng quà trải khăn đỏ, còn một đám giáo dân đi theo la inh ỏi: “Chúng con yêu mến Đức Tổng”. “Xin Đức Tổng ở lại với chúng con”. Trong khi đó LM Khải cầm máy chụp hình bấm liên tục.”(5)
“Chính quyền sử dụng tất cả các lực lượng tùy ý họ, gồm các phương tiện truyền thông nhà nước, bộ máy chính trị, pháp luật và hệ thống giáo dục công cộng để ngăn chặn sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo bằng mọi giá”.
“Người Công Giáo ở mọi miền của Việt
Hiện nay, LM Khải đang được đưa đi tố cộng tại nhiều nơi ở Mỹ, từ
Trước khi nói đến “sứ mạng” mà LM Nguyễn Văn Khải đang muốn thực hiện, chúng ta cần biết rõ LM Khải là ai và ông đã hành động hay tuyên bố những gì.
NHÌN LẠI CON ĐƯỜNG ĐÃ ĐI QUA
Trong bài “Rao giảng Tin Đồn” được phổ biến trên báo chí và hệ thống Internet ngày 20.7.2010, dưới tiểu đề “Vượt qua các đàn anh”, chúng tôi có viết vài hàng về LM Nguyễn Văn Khải như sau:
“Một giáo sĩ trẻ nhưng bạo mồn bạo miệng nhất ở Việt Nam hiện nay là LM Nguyễn Văn Khải thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà (DCCTTH). Nhiều nguồn tin nói rằng ông là người chủ trương website NVCL.
“DCCT Thái Hà được thành lập từ năm 1926 nhưng tiếng tăm của Dòng được thế giới biết đến kể từ năm 2008 khi Dòng và Giáo Xứ Thái Hà phát động chiến dịch đòi nhà cầm quyền trả lại các tài sản bị cưởng chiếm. Tiếp theo là chiến dịch của nhóm Nữ Vương Công Lý (NVCL) ở Thái Hà phát động để đòi giữ Đức TGM Ngô Quang Kiệt ở lại Hà Nội. Trong cả hai chiến dịch này, LM Nguyễn Văn Khải, một linh mục trẻ, người làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, sinh ngày 5.10.1970, được phong linh mục ngày 25.9.2001, đã giữ vai trò “xung kích” rất táo bạo.
“Về “thành tích chống cộng”, nếu so với các đàn anh trong Dòng như các linh mục Nguyễn Văn Vàng, Trần Hữu Thanh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan.... thì “thành tích” của LM Khải quá nhỏ bé. Còn nếu so với các giáo sĩ khác trong các vụ Vinh Sơn (Mặt Trận Phục Quốc), Việt Tiến, Mặt Trận Liên Tôn, Trung Tâm Đắc Lộ, Dòng Đông Công..., thành tích của LM Khải chỉ là con số không. Nhưng nếu xét về phương diện chống lại Giáo quyền thì LM Khải đứng hàng đầu!
“Trong lễ nhận chức của ĐGM Nguyễn Văn Nhơn, LM Khải là một trong những người hướng dẫn đoàn biểu tình chống Đức Cha Nhơn và ủng hộ Đức Cha Kiệt. Đoàn biểu tình có hai bà cầm sẵn hai cái khay đựng quà trải khăn đỏ, còn một đám giáo dân đi theo la inh ỏi: “Chúng con yêu mến Đức Tổng”. “Xin Đức Tổng ở lại với chúng con”. Trong khi đó LM Khải cầm máy chụp hình bấm liên tục.”(5)
Tiếp tục dựng chuyện để bôi nhọ LM Nguyễn Văn Khải
Trong năm qua, LM DCCT Nguyễn Văn Khải từ Roma qua Orange County
nói về Cộng Sản. Ông là người tổ chức biểu tình chống việc Toà Thánh bổ nhiệm
Đức Cha Nguyễn Văn Nhơn làm TGM Hà Nội, bị Bề Trên Tổng Quyền triệu hồi qua
Roma, ông phải vượt biên qua Lào rồi qua Thái Lan, từ đó được cấp giấy tờ đi
Roma. Những điều ông nói về Cộng Sản đàn áp tôn giáo quá thô thiển. Nếu Cộng
Sản mà vớ vẩn như thế làm sao họ “quốc doanh hoá” được cả Phật Giáo, Phật Giáo
Hoà Hảo, Cao Đài và Tin Lành? Ông nói về “Linh mục chui” nghe cũng rất vớ vẩn,
nó không gióng những gì chúng tôi đã đọc và nghe các thầy đang được huấn luyện
làm “linh mục chui” bị bắt giam đã kể lại khi chúng tôi ở trại Thanh Cẩm. Thế
nhưng kiểu phát sóng như vậy đã đi đúng vào tần số mà một số các ông các bà
muốn nghe, nên LM Khải cũng kiếm được vài chục ngàn bỏ túi trước khi trở lại
Roma.(6)
Tất cả những điều ông Tú Gàn viết ở trên không hẳn là sai hết.
Cộng đồng có gấu ó, có chia rẽ, cá nhân có tranh quyền lực. Nghĩa là có cả,
nhưng không thể biến tất cả thành phường chèo được. Người thiện chí có thừa,
người tốt việc tốt không thiếu. Điều chính yếu là ông trình bày cái đúng cái
sai đan xen vào nhau, nhiều điều thực hư, không trưng dẫn bằng cớ. Sự dựng
chuyện của ông thật nham hiểm.
Trong trường hợp linh mục Nguyễn Văn Khải, không có vấn đề bề trên cả dòng Chúa Cứu thế triệu hồi linh mục Nguyễn Văn Khải sang Roma. Càng không có vấn đề linh mục Nguyễn Văn Khải ẵm mấy chục ngàn đô là về Roma. Tôi đã hỏi những người trong ban tổ chức đón tiếp linh mục Nguyễn Văn Khải về hai vấn đề trên.
Ông Tú Gàn hoàn toàn đựng đứng và bịa chuyện. Và không lẽ mỗi điều ông viết lại cứ phải đi chứng minh?
Về việc đựng đứng, bịa chuyện này, tôi chỉ nhắc ông Tú Gàn là ông chắc không thể nào quên được vụ Bùi Bỉnh Bân. Đừng để tôi phải lôi chuyện này ra.
Trong trường hợp này, ông đã để lộ ra là một người thiếu lương tri, thiếu đạo đức và thiếu một tấm lòng. Ông Tú Gàn tự biến mình thành một thứ đao phủ, có cái đầu, nhưng lại thiếu một trái tim.
2. Quyền lực mềm
Theo Joseph Nye, quyền lực mềm là thứ quyền lực có khả năng tiếp cận lôi cuốn và thuyết phục người khác. Nó thể hiện trong những mối liên hệ của đời sống cá nhân với cá nhân, trong hôn nhân và cuối cùng trong thương mại, chính trị.
Với quyền lực mềm, người ta có thể đi đến hòa giải, thương lượng thay vì đối đầu.
Nhà văn, nhà xử dụng quyền lực mềm là cùng lúc xử dụng trái tim và cái đầu và tiến thêm một bước cao hơn là xử dùng quyền lực thông minh. Đây là thứ quyền lực mà Nye dành riêng trong một cuốn sách nhan đề: The Future of Power. Đó là việc định hướng chính sách đường lối, nghiên cứu đánh giá, tìm ra hướng đi mà không có tham vọng bá quyền.
Dựa trên nguyên tắc của quyền lực mềm, ông Tú Gàn có thể điện thoại, mời những người không đồng chính kiến với nhau ra quán cà phê nói chuyện, hay mời nhau một bữa ăn và tranh luận ngang ngửa.
Không ông đã không làm như thế. Ông nấp ẩn trong cái ghét tô của ông và chĩa nòng súng ra khỏi lỗ châu mai nhằm bắn những người đáng nhẽ là bạn, ngay cả là đồng chí, nay trở thành kẻ thù.
Dĩ chí có gặp nhau trong quán phở, nơi công cộng thì ông cũng tránh mặt.
Sách báo trở thành bãi chiến trường nã súng vào nhau như quân thù, quân hằn.
Đó cũng là hình ảnh có thực ngoài đời đôi khi ta bắt gặp một ông Tú gàn gương mặt xám đen, đầu hói, dáng đi lệch vai như người bị khuyết tật.
Dáng đi ấy biểu hiện một con người cô đơn thui thủi một mình đến tội nghiệp Tôi còn nhớ ông đến tòa báo trong ngày đầu tuần lặng lẽ vào phòng bà quản lý lấy tiền hoặc cầm dăm tờ báo mới, cắp nách rồi ra về.
Không chào hỏi ai. Ông như một cái bóng ma giữa mọi. người.
Cuộc đời như thế có đáng sống hay không đáng sống? Nguồn vui ở chỗ nào? Hay chỉ trừ những lúc ông lên đồng với chữ nghĩa?
Đã từ lâu, cứ kể từ năm 2006 đến nay, những bài viết của Tú Gàn có một chủ trương khá rõ rệt là:
- Miệt thị tất cả những tổ chức, những sinh hoạt, những cá nhân nào đang tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Hải ngoại.
- Mặt khác bôi xấu những nhân vật có uy tín trong nước, đặc biệt là các linh mục như LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, LM nguyễn Văn khải.
Nhất là kể từ khi chia tay với báo Sài Gòn Nhỏ. ông không có đất để viết. Chắc hẳn là nỗi mất mát lớn, cộng thêm nỗi hận oán. Ông chỉ còn viết trên báo mạng.
Ngòi bút của ông càng cay độc hơn, phóng túng hơn. Giọng điệu, quan điểm chính trị của ông như có đổi chiều, có thỏa hiệp. Nhiều bài viết và nội dung, cách trình bày cho người ta có cảm tưởng ông là người phát ngôn viên chính thức của chính quyền Hà Nội.
Một Tú Gàn không phải là một Tú Gàn như người nghĩ nữa.
Trước đây ông viết báo như người có cái đầu và không có trái tim. Nay cả tim lẫn đầu đều không có. Tội nghiệp cho môt kiếp người làm báo vào lúc cuối đời.
Trong trường hợp linh mục Nguyễn Văn Khải, không có vấn đề bề trên cả dòng Chúa Cứu thế triệu hồi linh mục Nguyễn Văn Khải sang Roma. Càng không có vấn đề linh mục Nguyễn Văn Khải ẵm mấy chục ngàn đô là về Roma. Tôi đã hỏi những người trong ban tổ chức đón tiếp linh mục Nguyễn Văn Khải về hai vấn đề trên.
Ông Tú Gàn hoàn toàn đựng đứng và bịa chuyện. Và không lẽ mỗi điều ông viết lại cứ phải đi chứng minh?
Về việc đựng đứng, bịa chuyện này, tôi chỉ nhắc ông Tú Gàn là ông chắc không thể nào quên được vụ Bùi Bỉnh Bân. Đừng để tôi phải lôi chuyện này ra.
Trong trường hợp này, ông đã để lộ ra là một người thiếu lương tri, thiếu đạo đức và thiếu một tấm lòng. Ông Tú Gàn tự biến mình thành một thứ đao phủ, có cái đầu, nhưng lại thiếu một trái tim.
2. Quyền lực mềm
Theo Joseph Nye, quyền lực mềm là thứ quyền lực có khả năng tiếp cận lôi cuốn và thuyết phục người khác. Nó thể hiện trong những mối liên hệ của đời sống cá nhân với cá nhân, trong hôn nhân và cuối cùng trong thương mại, chính trị.
Với quyền lực mềm, người ta có thể đi đến hòa giải, thương lượng thay vì đối đầu.
Nhà văn, nhà xử dụng quyền lực mềm là cùng lúc xử dụng trái tim và cái đầu và tiến thêm một bước cao hơn là xử dùng quyền lực thông minh. Đây là thứ quyền lực mà Nye dành riêng trong một cuốn sách nhan đề: The Future of Power. Đó là việc định hướng chính sách đường lối, nghiên cứu đánh giá, tìm ra hướng đi mà không có tham vọng bá quyền.
Dựa trên nguyên tắc của quyền lực mềm, ông Tú Gàn có thể điện thoại, mời những người không đồng chính kiến với nhau ra quán cà phê nói chuyện, hay mời nhau một bữa ăn và tranh luận ngang ngửa.
Không ông đã không làm như thế. Ông nấp ẩn trong cái ghét tô của ông và chĩa nòng súng ra khỏi lỗ châu mai nhằm bắn những người đáng nhẽ là bạn, ngay cả là đồng chí, nay trở thành kẻ thù.
Dĩ chí có gặp nhau trong quán phở, nơi công cộng thì ông cũng tránh mặt.
Sách báo trở thành bãi chiến trường nã súng vào nhau như quân thù, quân hằn.
Đó cũng là hình ảnh có thực ngoài đời đôi khi ta bắt gặp một ông Tú gàn gương mặt xám đen, đầu hói, dáng đi lệch vai như người bị khuyết tật.
Dáng đi ấy biểu hiện một con người cô đơn thui thủi một mình đến tội nghiệp Tôi còn nhớ ông đến tòa báo trong ngày đầu tuần lặng lẽ vào phòng bà quản lý lấy tiền hoặc cầm dăm tờ báo mới, cắp nách rồi ra về.
Không chào hỏi ai. Ông như một cái bóng ma giữa mọi. người.
Cuộc đời như thế có đáng sống hay không đáng sống? Nguồn vui ở chỗ nào? Hay chỉ trừ những lúc ông lên đồng với chữ nghĩa?
Đã từ lâu, cứ kể từ năm 2006 đến nay, những bài viết của Tú Gàn có một chủ trương khá rõ rệt là:
- Miệt thị tất cả những tổ chức, những sinh hoạt, những cá nhân nào đang tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Hải ngoại.
- Mặt khác bôi xấu những nhân vật có uy tín trong nước, đặc biệt là các linh mục như LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, LM nguyễn Văn khải.
Nhất là kể từ khi chia tay với báo Sài Gòn Nhỏ. ông không có đất để viết. Chắc hẳn là nỗi mất mát lớn, cộng thêm nỗi hận oán. Ông chỉ còn viết trên báo mạng.
Ngòi bút của ông càng cay độc hơn, phóng túng hơn. Giọng điệu, quan điểm chính trị của ông như có đổi chiều, có thỏa hiệp. Nhiều bài viết và nội dung, cách trình bày cho người ta có cảm tưởng ông là người phát ngôn viên chính thức của chính quyền Hà Nội.
Một Tú Gàn không phải là một Tú Gàn như người nghĩ nữa.
Trước đây ông viết báo như người có cái đầu và không có trái tim. Nay cả tim lẫn đầu đều không có. Tội nghiệp cho môt kiếp người làm báo vào lúc cuối đời.
(1) Hai trong
nhiều cuốn sách của Joseph Samuel Nye, Jr. là: “Soft power, the means to
success in world politics” (2004) và “The Future of power” (2011).
(2) Tú gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid.
(3) Tú Gàn, 32 năm nhìn lại, diễn đàn Motgoctroi. Com
(4) Tú Gàn, Lại trúng kế rồi, Ibid.
(5) Tú Gàn, Công giáoVN tuyệt vọng, Ibid.
(6) Tú Gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid
(2) Tú gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid.
(3) Tú Gàn, 32 năm nhìn lại, diễn đàn Motgoctroi. Com
(4) Tú Gàn, Lại trúng kế rồi, Ibid.
(5) Tú Gàn, Công giáoVN tuyệt vọng, Ibid.
(6) Tú Gàn, Chỉ là chuyện một giấc mơ, Ibid
From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "dothainhien@yahoo.com" <dothainhien@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 8:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Đỗ Thái Nhiên định "bề hội đồng"?
To: "dothainhien@yahoo.com" <dothainhien@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 8:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Đỗ Thái Nhiên định "bề hội đồng"?
Đỗ Thái Nhiên định "bề hội đồng"?
Đỗ Thái nhiên định bắt chước Nguyễn Hữu Chánh hay Việt
Cộng, lập "Toà Án Nhân Dân" để "bề hội đồng". Tôi
biết anh không tranh luận nổi với tôi mới tính trò "bề hội đồng" kiểu
này. Đó là trò của Nguyễn Hữu Chánh hay của Việt Cộng, không phải là thái
độ của kẻ sĩ. Nhưng tôi sẽ trình bày sự thật.
Một triệu con số không cộng lại vẫn là con số không!
Lữ Giang
Một triệu con số không cộng lại vẫn là con số không!
Lữ Giang
Sent: Sunday,
January 22, 2012 8:16 AM
Subject: Ải Nam
Quan là của Tàu hay của Việt Nam
Kính gửi
ông Tú Gàn
Trong bài
viết "Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa", ông Tú
Gàn có nêu đề nghị: Tú Gàn
và Đỗ Thái Nhiên sẽ tranh luận với nhau để biết xem "Ải Nam Quan là của
Tàu hay của Viêt Nam".
Theo ông Tú Gàn cuộc tranh luận sẽ diễn ra trên một đài truyền hình nào đó. Tôi rất hài lòng khi nhận được yêu cầu
vừa kể của ông Tú Gàn.
Tuy nhiên, tranh luận về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam đối với lãnh thổ Việt Nam cần phải được diễn ra trước sự chứng giám
trực tiếp của khán thính giả Việt Nam . Đó là lòng tôn kính cần có và
tự nhiên của mỗi người Việt Nam
dành cho tập thể quần chúng Việt Nam . Mặt khác, tranh luận dân chủ
không là cơ hội để những người khác biệt ý kiến thóa mạ lẫn nhau thậm tệ và vô
trật tự. Tranh luận dân chủ có chủ đích làm cho công lý được sáng tỏ. Vì vậy, Tôi mong muốn là cuộc tranh
luận giữa ông Tú Gàn và tôi cần dược diễn ra theo hai điều kiện sau đây:
1)Địa
điểm tranh luận phải là một hội trường đủ rộng để cho công chúng tự do dư thính
và có ý kiến.
2)Cuộc tranh luận cần được điều hợp bởi
một ủy ban trọng tài do ông Tú Gàn và tôi thỏa thuân tuyển chọn.
Tôi rất tin tưởng cuộc tranh luận sẽ nhanh chóng diễn ra.
Nay kính
Đỗ Thái Nhiên
2/ Đối
với Nhà văn Mặc Giao tức ông Phạm Hữu Giáo, Tú Gàn tức Lữ Giang tức Nguyễn Cần
viết:
”,
vậy anh nên chấp nhận tranh luận với tôi về đề tài chính trong bài của tôi là
chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa theo quốc tế công pháp: Tàu nói của
Tàu, ta nói của ta, vậy Hoàng Sa và Trường Sa là của ai? Nếu anh đúng là một
nhà ngoại giao và một luật gia, xin ra nói chuyện về vấn đề qua trọng này.
Và ông Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao trả lời:
Sent: Saturday,
January 21, 2012 12:33 PM
Subject: RE:
[chinhnghia] Mặc Giao và Đỗ Thái Nhiên lại chọi đá đường rầy xe lửa!
"Sự thật là như thế. Ông Nguyễn
Cần còn muốn xuyên tạc gì thêm không? Tôi sẵn sàng nói rõ sự thật cho ông và cả làng nghe. Tôi khuyên ông
nên giữ thái độ “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, đừng ra vẻ ta đây cái gì cũng biết, nhưng sự thật chẳng biết gì. Khi bị
lật tẩy mắc cở lắm".
Kính thưa quý vị,
Như thế đã quá rõ ràng, Tú Gàn/Lữ
Giang/Nguyễn Cần đã đưa ra lời thách thức tranh luận vào ngày Saturday,
January 21, 2012 12:06 PM, và chỉ 27 phút sau, tức ngày Saturday, January 21,
2012 12:33 PM ông Đỗ thái Nhiên tức LS Nguyễn Phương Minh, và cựu
Dân Biểu Phạm Hữu Giáo tức nhà văn Mặc Giao chấp nhận lời đề nghị tranh
luận của Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
Nhưng đã gần một tuần lễ trôi qua mà Tú Gàn/Lữ
Giang/Nguyễn Cần im re hay còn gọi là nín khe!!! Chúng tôi đang chờ đợi sự trả
lời từ Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần.
Nhân tiện, chúng tôi xin mạn phép kính nhờ
quý vị "đoán thử xem" Tú Gàn/Lữ Giang/Nguyễn Cần có dám xuất hiện để
tranh luận với các ông Đỗ Thái Nhiên (tức LS Nguyễn Phương Minh) và nhà văn Mặc
Giao (tức cựu Dân Biểu VNCH Phạm Hữu Giáo) không?
Trân trọng kính nhờ và kính mong công luận
phán xét.
Trần Việt
From: Lu Giang <lugiang2003@yahoo.com>
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]
To: "lugiang2003@yahoo.com" <lugiang2003@yahoo.com>
Sent: Friday, January 27, 2012 2:01 PM
Subject: [Thaoluan9] Vì bản chất dân tộc Việt? [1 Attachment]
Vì bản chất
dân tộc Việt?
Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống
cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui
vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi
đọc bài “Chỉ là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người
Việt ‘xấu xa’” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan
Huynh kể đại khái như sau: Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ
vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ,
không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích: “Cua
Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò
lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi
lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng
thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng
chúng tôi đã dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người
Việt hải ngoại, nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách
“chọi đá đường rầy xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội
gióng nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được,
còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi?
Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản
chất thực sự của người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ
đó loại bỏ cái xấu và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN
NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ
(American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc
tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa
mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải
đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn
và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến
sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng,
nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết
nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ
thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc
nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their
families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự
hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi
hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off].
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ
lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều
kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng
mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh
những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng
thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc;
2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task
excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy
người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc
tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG
ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi
viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn
hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của
người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn
tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng
tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người
Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm
nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc
văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị
người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật
rõ như câu phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm
tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm
sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một
nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy
giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình
nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được
cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng
của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay
có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay
mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời
Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn
minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái
học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo,
đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy
thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá
đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh
hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý
và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật
phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người
mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại
càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà
Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học
thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu
thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người
mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có
cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt
không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của
mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ
sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai
bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như
thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những
điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người
ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và
sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là
phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu
thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ
nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như
thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều
Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và
nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường
tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp
đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn
mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa
Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá
của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ
“quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây
vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt
Nam:
Con ơi!
muốn nên thân người
Lắng tay
nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối
được nghiệp nhà
Trước là
đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái
không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách
ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối
cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm
thân”.
Trong nước, tiêu
chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại
quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả
triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần
như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa
con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu
chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế,
chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số
các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người
Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc
Lộc Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là
tượng các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa
bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và
mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và
truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên
được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA
Trong khi người
Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi
ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những
đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì
cũng làm
2.- Tiết kiệm, không
sống khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn
bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế
gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ
sang đới kia.
5.- Hình thành những
xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất
định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những
công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những
lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính
quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia
chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị
quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người
Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với
khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe
Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn
với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng
chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động
gần như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng
lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như
sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
“Khi bắt đầu
bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ
các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức
căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các
bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu,
Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân hàng
nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân công, giới
thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn
miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao
kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy
tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại
hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự
việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa
hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH
Cuộc kiểm tra năm
2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức
1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở
Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế
giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là
chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh
(thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng Nguyễn Xuân
Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này
đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng
hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà
Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà
chẳng ai làm gì được. Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp
mũ nhau không ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài”
của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương,
thành phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu
được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi
không thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không
nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh
với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang
trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc
thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã
nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền
cho cả hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì
sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được
chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người
Việt!
Tôi nhớ lại trong
cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang
ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los
Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp
tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong
người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V.
Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng
ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều
hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những
lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục
tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối
kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người
làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến,
không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa
cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang
__._,_.___
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire