CÂU CHUYỆN
ÔNG TRỜI
Lm.
Anphong Trần Đức Phương
LTS:
Trang AVTC tháng 12, nhân dịp Lễ Giáng Sinh, chúng tôi có đưa lên bài
viết của ông Vũ Khánh Thành về liên hệ giữa Con Người và Thượng Đế, quan niệm
về Thượng Đế qua các nền văn minhi, quan niệm về Thượng Đế trong Thánh Kinh cựu
ước và tân ước .. đồng thời thời ông nhấn mạnh đến việc Sống Đạo theo nghĩa
“tận nhân lực qui thiên mạng, đạo không thể tách khỏi đời, thiên đàng và trần
gian, đạo đời ly biệt, nhà thờ và cuộc sống, người có đạo kẻ vô đạo” v.v …
Chúng tôi vừa nhận được
bài viết sau đây của LM Trần Đức Phương, xin đăng lại để rộng đường dư luận.
Quan niệm về Ông Trời trong văn hóa VN thật đậm đà rõ nét trong ý nghĩa “có
trời mà cũng có ta, thiên địa vạn vật đồng nhất thể, thiên lý tại nhân tâm, xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” … Đây là những quan niệm trong cuộc sống,
những luân lý tự nhiên thúc đẩy con người làm lành lánh dữ. Nó khác với quan
niệm về Thượng Đế trong các tôn giáo độc thần như của Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo hay Hồi Giáo. Đó là một tôn giáo, một chủ thuyết, khác
với một ý niệm. Ý niệm về “bình sản”, ý niệm về “lao động sản xuất” đã
có từ lâu và bàng bạc trong các nền văn minh nhưng khi nó trở thành một chủ
thuyết như của Marx, Engel và Hegel thì khác nhau một trời một vục. Chủ thuyết
này sau đó được đưa vào thực hành trong chính trị của Lenin, Stalin và Mao
Trạch Đông đã thực hiện … thì không còn là chuyện trong ý niệm nữa mà đã trở
thành một thẩm họa khủng khiếp nhất cho nhân lọai. Một quan niệm về Ông Trời
trong văn hóa nhân gian Việt Nam, nó khác với Thượng Đế trong tôn giáo như Đấng
Allah của Hồi Giáo một trời một vục. Nó không còn là ý niệm nữa mà máu đổ thịt
rơi hàng ngày như hiện nay hay chiến tranh Thập Tự quân hồi Trung Cổ … Trong
bài “Con Người và Thượng Đế” tác giả chỉ nhấn mạnh đến ý nghĩa “đạo học”
chứ không nói đến khía cạnh tổ chức của giáo hội công giáo cũng
như không nói đến những thành quả giáo dục và xã hội rất lớn lao
mà giáo hội mang lại cũng như không nói đến những sự hy sinh của hàng giáo
phẩm, hàng giáo sĩ và tu sĩ cho tha nhân, tưởng không ai có thể chối bỏ được.
Cũng nhờ đạo yêu thương bác ái mà Kitô giáo mang lại, đã cứu vãn nền văn minh
Tây Phương khỏi bị xụp đổ theo với văn minh Hy Lạp và La Mã.
Xin mời quí vị đọc bài
“Câu chuyện Ông Trời”.
Những người chủ trương “Vô
thần” trong những thế kỷ trước đây, đặc biệt Friedrich Wilhelm Nietzsche
(1844-1900), Jean-Paul Sartre ( 1905-1980), đã tuyên bố “Thiên Chúa đã chết!”
(Dieu est mort! God is dead!).
Sartre đã chết vào năm 1980.
Hồi đó có người đã đăng lên báo lời Cáo phó: “Jean-Paul Sartre đã chết” và dưới
ký tên “Thiên Chúa.”
Nietzche đã chết! Sartre đã
chết! Những đồ đệ của các ông hồi đó, bây giờ cũng đã chết. Các danh nhân hào
kiệt một thời lừng lẫy tên tuổi như Thành Cát Tư Hãn, A-Lịch-Sơn Đại Đế, các
Hoàng Đế Rôma uy phong lẫm liệt, Tần Thủy Hoàng, các lãnh tụ độc tài ‘coi trời
bằng vung’ như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông…đều đã chết. Nhưng Ông
Trời (Thiên Chúa) ‘vẫn sống’ và suốt ngày người ta vẫn kêu Ông Trời ‘Trời ơi!’
(Oh my God! Mon Dieu!...) . Người ta ‘kêu Trời’ cả khi vui, cả khi buồn, cả khi
bất mãn, cả khi thỏa lòng.
Người ta kêu Ông Trời để cầu
xin:
“Lạy Trời mưa xuống, lấy nước
tôi uống…”
Người ta cũng kêu Ông Trời để
than vãn:
“Trời hành cơn lụt mỗi năm…”
“Trẻ Tạo Hóa đành hanh quá ngán
Chết đuối người trên cạn mà
chơi…”
“Trời xanh quen thói má hồng
đánh ghen…”
Người ta cũng nại đến Ông Trời
để thề, để chứng minh lòng thành của mình:
“Hoàng Thiên hữu nhãn!”
“Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm
nhân!”
Con người từ thuở xa xưa cũng
đã nhận ra ‘có Ông Trời’ và bằng nhiều cách khác nhau tìm cách để ‘cúng vái Ông
Trời’. Tại Việt Nam thời các vua chúa, cũng có ‘Điện Thờ Trời’ và ngày đầu năm
mới, vua phải thân hành đến điện để cúng Trời và cầu cho ‘quốc thái dân an’.
Quan niệm về ‘Ông Trời’ thật khác
nhau tùy theo các chủng tộc, các địa phương và biến chuyển qua thời gian và
thường rất mơ hồ. Mỗi bộ lạc, mỗi dân tộc đều có tiếng để chỉ “Ông Trời”. Việt Nam
chúng ta có nhiều tiếng để chỉ “Ông Trời”: Trời, Thượng Đế, Hoàng Thiên, Đấng
Tạo Hóa, Thiên Chúa...
Con người thường rất sợ Ông
Trời và lo lắng để tránh bị Trời phạt tội. Các tai ương, bịnh tật…đều được coi
như do Ông Trời gây ra để phạt tội con người. Từ mối sợ hãi mơ hồ này, người ta
đã ‘sáng tạo’ ra biết bao “Ông Thần” để thờ cúng: Thần Sông, Thần Núi, Thần
thủy, Thần Hỏa… Các tinh tú cũng được gán cho danh hiệu ‘thần’: Thần Mặt Trời,
Thần Vénus, Thần Jupiter…
Việc thờ cúng nhiều khi trở
thành ‘mê tín dị đoan’, có khi giết người để thờ cúng Thần. Có nơi thờ bò, thờ
khỉ, thờ cá ông voi,vv…
Cha ông chúng ta từ ngàn xưa đã
nhận ra TRỜI như là Thượng Đế (Vua trên hết các vua). Các vua ở trần gian là
con của Trời, vì thế gọi là “Thiên Tử” (Con Trời), ‘thay Trời để trị dân’. Cha
ông chúng ta cũng nhận ra chỉ có một Ông Trời.
Trong chữ Nho, chữ Trời (Thiên) gồm có bộ ‘nhất’ và ‘đại’ nói lên ‘Trời là vị
lớn duy nhất’. Tôi nhớ hồi trước Linh mục Nguyễn Văn Thích (1891-1978), giáo sư
Đại Học về Triết Đông, đã say mê giảng về chữ ‘Thiên’ (theo quan niệm triết học
Á Đông như trên). Hỏi ra tôi mới biết Cha Thích ( cũng như Cha Bửu Dưỡng , 1907
– 1987) đã nhận ra ‘Ông Trời’ khi còn tuổi thanh niên và đã quyết tâm tìm cách
gia nhập vào “Đạo Trời” (Thiên Chúa Giáo) dù gặp bao trở ngại, kể cả việc phản
đối mạnh mẽ của gia đình. Chỉ mãi tới tuổi 28, mới được chịu phép “Thánh Tẩy”
để gia nhập Giáo Hội công Giáo. Sau đó lại muốn dấn thân đem cả cuộc đời để
phục vụ ‘Trời’ và ‘Tha Nhân’, nên đã bỏ mọi sự để ‘đi tu’ làm Linh Mục, và suốt
cuộc đời sống khổ hạnh để rao giảng về “Đạo Trời” cho mọi tầng lớp dân chúng, ở
các giáo xứ, hay trong các trường Đại Học: “Đạo” không còn phải chỉ là con
đường sống cho xứng con người tự nhiên; hoặc không phải chỉ là một nền luân lý,
một nền tảng đạo đức để noi theo mà sống ‘đạo làm người’; nhưng ”Đạo” còn là
con đường để đi đến với Ông Trời chính danh, Đấng đã dựng nên con người, và vũ
trụ, cũng như mọi vật trong vũ trụ, đúng theo nghĩa của ‘Religion’ với nguyên
ngữ tiếng La-Tinh ‘Religere’ là “nối kết”; “Đạo” vì thế có nghĩa là con đường
đưa ta đến với Trời và đi đến với nhau; nối kết Trời với con người và nối kết
con người với nhau. Trời chẳng nhũng là Tạo hóa mà còn là Cha và mọi người đều
là anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại.
Kinh Thánh (The Bible) cho
chúng ta biết Trời đã dựng nên con người ‘theo hình ảnh’ của Trời ( Sách Khởi
Nguyên 1,27); vì thế khác hẳn mọi loài vật khác, con người có trí thông minh,
biết suy tưởng, có lý luận, biết tìm hiểu và tiến bộ không ngừng. Con người lại
được Trời ban cho có ý thức tự do, và vì thế cũng có trách nhiệm: mỗi người
phải chịu trách nhiệm về chính cuộc đời của mình, và liên đới trách nhiệm với
tha nhân trong liên hệ gia đình nhân loại. Vì có ‘Tự do’ và ý thức trách nhiệm
nên mới ‘có tội’ và ‘có phúc’.
Ông Trời cũng dựng nên con người
có ‘Xác’ và có ‘Hồn thiêng’ , và vì thế con người có thể liên kết với Trời là
‘Đấng thiêng liêng’ và con người cũng tồn tại mãi mãi (trường sinh bất tử).
Chết chỉ là chết ‘thể xác’ nhưng hồn thiêng vẫn còn sống mãi (Chết là thể
phách, còn là tinh anh). Chính khi ‘chết’ lại là lúc con người được bước vào
cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh hằng. Vì thế, tiếng Việt Nam rất đúng khi cùng chữ ‘Qua
đời’ để chỉ về sự chết: Qua cuộc đời ngắn ngủi này để về cuộc sống vĩnh
hằng. Chính vì thế mới có câu nói ‘sống gửi, thác về’, về đâu? Về quê thật là
Nước Trời, về với Chúa là Cha, Đấng đã dựng nên mình.
Cũng theo Kinh Thánh, Trời
không bao giờ xa con người. Trời đã dựng nên con người theo ‘hình ảnh của
Trời’, và không bỏ rơi con người muốn sống thế nào tùy ý (như quan niệm của
nhóm Deism). Nhưng Trời vẫn quan phòng mọi sự trên thế giới này để phục vụ con
người theo chương trình ‘cứu rỗi’ của Ngài dọc theo dòng lịch sử của nhân loại.
Hơn nữa, để con người hiểu rõ
hơn về Trời, chính Trời đã đến với con người, đã ‘nhập thể’
và sống cuộc đời như con người, hòa mình với mọi người, nhất là những người
nghèo khó, khổ đau.” Thiên Chúa đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta”
(Gioan 1,14) để tỏ hiện cho con người biết về Thiên Chúa thật và cách thờ
phượng Ngài cho đúng cách. Con người đã biết Ngài như Ông Trời, Thượng Đế, Đấng
Tạo Hóa v.v… Nhưng Thiên Chúa nhập thể đã dạy cho chúng ta biết “Thiên Chúa là
Tình Yêu!” (1 Gioan 4,8). Là Tình Yêu, Ngài cũng là Cha của mọi người chúng ta.
Ngài là ‘Cha nhân từ hay tha thứ’ (Xin đoc Luca , chương 15) , chứ không phải
là Đấng chỉ nhằm ‘phạt tội’ hay ‘bắt tội’ con người!
Chúng ta là con cái của Chúa ,
và là anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại (Tứ hải giai huynh đệ!). Dù
da đen, da trắng, da vàng… Dù nói bao nhiêu thứ tiếng khác nhau, chủng tộc khác
nhau… nhưng ‘dị biệt trong Duy Nhất’, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện với Ngài
bằng các thứ tiếng khác nhau: “Lạy Cha chúng con…( Mátthêu 6,9…). Có thể sánh
ví nhân loại chúng ta như một vườn hoa: Vườn hoa nhân loại có đủ mọi thứ hoa,
màu sắc khác nhau, hương thơm khác nhau, thật dị biệt, nhưng lại hòa hợp với
nhau thành một sự hài hòa tuyệt vời!
Nếu nhân loại nhận biết và sống
theo Tin Mừng tình thương của Chúa, thì nhận loại sẽ có thể sống trong hòa
bình, yêu thương như anh em một nhà. Rất tiếc, qua dòng lịch sử, con người đã
dùng tự do Chúa ban để chống lại chính Thiên Chúa, sống thác loạn theo tự do vô
lối, theo thú tính ích kỷ ham danh lợi thú, chối bỏ Thiên Chúa là Cha, chiều
theo các ‘thần giả dối’, thờ ‘ngãu tượng’. Khi con người đã chối bỏ Thiên Chúa,
chủ trương ‘vô thần’ thì cũng dễ sống ‘vô luân’ (vô luân thường đạo lý). Khi “ Thiên
Chúa đã chết ”, thì nhân loại không còn là một gia đình nữa, con người
không còn anh em với nhau mà “Người này là hỏa ngục của người khác!’”(L’Enfer,
c’est les Autres, Jean-Paul Sartre). Con người nhìn nhau như thù địch, rình mò
hãm hại lẫn nhau, dèm pha, nói xấu, tìm cách để tiêu diệt lẫn nhau. Vì thế,
những kẻ vô thần tìm cách lật đổ Thiên Chúa, phá bỏ ‘Thiên đàng’ để quyết tâm
xây dựng thiên đàng ngay trên trần thế này , nhưng hóa ra lại xây dựng ‘hỏa
ngục’, và con người trở nên ‘qủy dữ’ giết nhau không thương tiếc. Hitler đã
giết bao nhiêu triệu người, ngoài sáu triệu người có dòng máu Do Thái. Các lãnh
tụ Công sản như Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông… đã tàn sát bao nhiêu triệu
người để xây dựng thiên đàng hạ giới!
Trong đêm Thiên Chúa giáng sinh làm người để ở giữa chúng ta’
(Emmanuel), các mục đồng cùng với các Thiên Thần đã đến thờ lạy Đấng Hài Nhi
mới sinh, và các thiên thần đã hát lời “Vinh danh thiên Chúa trên trời, bình an
dưới thế cho người thiện tâm”. Thiên Chúa đã xuống thế làm người đem bình an
đến cho thế giới; nhưng chỉ những người thành tâm thiện chí mới cảm nghiệm được
bình an thật của Chúa, mới biết sống yêu thương và chung tay xây dựng hoà bình
trong gia đình, trong thế giới.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire