lundi 21 décembre 2015

NGUỒN GỐC VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM Hay VĂN HOÁ TIỀN SỬ DIỂN CA




      NGUN GC VĂN HOÁ
         CA DÂN TC VIT NAM

                                  Hay


         VĂN HOÁ TIN S DIN CA






       Gs.Ts. Nguyễn Thị Thanh MD. PhD. (BMT 1972)                                                  


I- MIÊU TỘC (VIÊM VIỆT*) VỚI NƯỚC XÍCH THẦN VÀ XÍCH QUỸ TRÊN HAI BỜ SÔNG TRƯỜNG GIANG:

Trường giang sóng nước chập chùng,
Động Đình Văn hóa* hai vùng Bắc Nam.
Đế Minh * chia cắt giang san,
Hai con hai mẹ hai phần quân phân.
Đế Nghi lãnh nước Xích Thần*,  
Giữa hai sông lớn sông Hoàng sông Dương*. 
Phần em Lộc Tục* đảm đương,
Từ sông Dương Tử* theo đường lập quốc.
Tên Kinh Dương Vương ấy gốc
Quốc hiệu Xích QuĨ ấy mốc* thời gian.
Long Nữ con Động Đình Quân,
Cùng vầy duyên thắm cùng chàng Dương Vương
Sinh ra Sùng Lãm khác thường*,
Tài văn tài võ mọi đường tiến thân
Lãm xưng là Lạc Long Quân.
Hai nước vật chất tinh thần liên minh*.

Anh em đoàn kết tử sinh !!!
Đồng chung ý chí nghĩa tình nước non.
Đế Nghi truyền lại cho con*.
Đế Lai nối nghiệp xưng con của trời*,
Thiên Tử* là hiệu của người;
Sinh ra con gái rạng ngời Âu Cơ*,
Vừa tài vừa đẹp anh thư*,
Vì thân nên gả Âu Cơ trọn tình.
Lạc Long (Quân) cưới được vợ xinh,
Lòng càng thêm mặn cái tình nghĩa huynh.

Hai nhà chí kết liên minh,
Hầu mong giữ đất ông mình* phân hai.
Xích Quĩ chính nghĩa là tài*,
Xích Thần mang nặng hình hài thần linh*,
Hai đàng kết nghĩa nhân sinh*,
Cùng chung vui sống nghĩa tình bà con.

II-  MÔNG CỔ HÁN TỘC XÂM LĂNG BÁCH VIỆT:

Rủi đâu tràn xuống giặc Mông (Cổ)*,
Đế Lai run sợ quyết lòng liên minh*.
Cùng nhau liên kết* quân binh,
(Lạc) Long Quân* cùng hợp chiến chinh chống thù.
Liên minh Xích Quĩ đặc thù*,
Mặt thời bôi đỏ từ từ tiến lên.
Âu Cơ hăng hái đánh liền,
Ra quân cứu nước miền quê hương nàng,
(Lạc) Long Quân cất vó rở ràng,
Rừng gươm núi giáo hai đàng hiệp nhau.
Đế Lai chỉ huy trận đầu,
Cùng quân Mông đánh thần sầu quỉ run.
Quân Mông sức mạnh ung dung,
Là dân du mục quen dùng chiến chinh.
Một trận TRÁC LỘC* thiên kinh !
Hoàng Giang máu thắm, sinh linh nhuộm màu.
Liên Minh Xích Quĩ thua mau,
Đế Lai tử trận Xích Thần mất toi.
(Lạc) Long Quân kéo chạy ôi thôi !
Chạy ra miền biển rồi trôi theo dòng…
Ra khơi thuyền tới biển đông*,
Mất tích chẵng biết chàng dông phương nào…
Âu cơ nước mắt tuôn trào !!!
Mẹ con phân nửa* trở vào nước xưa*.
Một mình dựng nước sớm trưa,
Cùng bầy con cháu cho vừa lòng dân.
Nàng Âu mới thật Tổ Tông*,
Sinh ra Bách Việt rạng đông truyền thần .
Tự xưng là họ Hồng Bàng*,
Chia con cai quản xóm làng làm vua.
Các con xưng hiệu Hùng Vương,
Bao quanh Vương nữ Âu Cơ an toàn.
Đặt tên là nước Văn Lang*,
Phương tây giáp Thục*, phưong nam giáp Chàm,
Phía bắc là Dương Tử Giang,
Phương đông ấy biển gọi rằng Biển Đông.
Văn Lang phong thổ huy hoàng,
Vốn dòng Bách Việt Hồng Bàng nguyên niên.
Âu Cơ làm chúa ‘Không Tên’,
Không người tưởng nhớ công thiêng của nàng !  
Không người thờ cúng đàng hoàng !
Không người nhớ tới công nàng lập quốc !
Một tay dựng nước là gốc,
Một tay gìn giữ thúc đốc vua Hùng,
Một tay chống chọi giặc Mông,
Mới sinh nước Việt oai hùng ngày nay.
Cớ sao dân Việt chua cay!
Theo Mông* chê Nữ thầy lay thấp hèn*
Chẵng thờ Vương Nữ linh thiêng*
Bỏ quên Tổ Mẩu Mẹ Hiền nước Nam.
Bao đời chỉ nhớ vua nam*,
Hùng vương dựng nước Hiến văn bốn ngàn*.
Mổi năm có lể đàng hoàng,
Khấu đầu lạy tạ công vàng nước non,
Chỉ vì kỳ thị nữ ‘không’*,
Quên ơn nghĩa Mẹ, quên công đầu nguồn*.
Người người chỉ nhớ Hùng Vương,
Năm năm đầy đủ đèn hương cúng thường.
Nhớ chăng ai lập vua Hùng ?
Ấy công Tổ Mẩu nữ hùng Âu Cơ.
Một tay gầy dựng cơ đồ,
Làng làng chia tõ quanh đô thành miền,
Đặt con lãnh tụ liền liền,
Vua Hùng cai quản các miền Mẹ giao.
Muời tám dòng* có chí cao,
Được người xưng tụng, ngày nào quên ân.
Kéo dài cho đến vạn năm* ?

III- NHÀ THỤC VỚI HÁN MÔNG BÊN TÀU VÀO THỜI ĐÔNG CHU LIỆT QUỐC

Thế rồi Thục Phán* tiến lên xưng thần,
Phía nầy vốn thuộc Văn Lang,
Bị Thủy Hoàng chiếm dựng nên nhà Tần.
Tứ Xuyên Bách Việt mọi đàng,
Cùng từ Xích Quĩ dần dần chia nhau.
Vua Tần (Tàu) thế lực thần sầu.
Mạnh lên Thục Phán mau mau đánh liền,
Mưu cao* chiếm nhẹ trước tiên,
Thu nhanh gọn chiếm kẻo phiền Tần luôn.
Lập nên nhà Thục vuông tròn,
Lấy tên Âu Lạc, An Dương (Vương)* quốc thành,
Văn Lang từ đó biến nhanh.
Thục vương kiến thiết, xây thành Cổ Loa,
Trùng tu cho nước non nhà,
Hầu mong chống đở quan qua khó lòng.

IV- NGUỒN GỐC MÔNG CỔ CỦA TÀU

Kể từ Mông Cổ làm vua,
Tự xưng Hoàng Đế bên bờ Hoàng Giang,
Liền sinh bành trướng Trung Nguyên,
Vốn dòng du mục bắc nguyên* tràn vào.
Dân du mục tướng dáng cao,
Người cao ngựa mạnh lập trào đình riêng.
Đến nay giặc giả liên miên,
Suốt bao thế kỷ gọi liền Liệt Quốc
Đông Chu ấy thật gian truân,
Khiến dân Bách Việt mất dần đất đai.
Vẩn còn chín quận an bài*.

Quân ta chống với quân Tần kém chi,
Ra sức giết được Đồ Thư*,
Giết quân xâm lượt đặng từ* vinh quang.
Nhà Tần không được thịnh an*,
Bị Lưu Bang chiếm cho an dân tình,
Lập nên nhà Hán Nam Kinh,
Rồi sai tướng giỏi với binh lính Tàu
Đưa quân xâm lấn cho mau.
Nhà Triệu mất nước bị Tàu hộ đô.
Coi dân ta là Nam Nô,
Khiến dân ta trở thành lệ nô dân Tàu.

V- NAM VIỆT NHÀ TRIỆU CHÍNH HIỆU BÁCH VIỆT TÊN TỔ VIỆT NAM

Trở lại nhà Triệu lên ngôi,
Cũng nguồn Bách Việt, chẳng ô nhiễm Tàu.
Thay Thục, Triệu dựng nước giàu,
Đặt tên Nam Việt ấy giòng Việt Bách.
An hòa tính chuyện quốc sách,
Vũ Vương tước Hán* theo cách an lành.
Nam Việt nhà Triệu lo canh,
Đất đai chính quận thái bình cũng tan:
Tính từ Đạm Nhĩ, Cữu Chân,
Nhật Nam, Giao Chỉ, Uất Lâm, Câu nhài,
Quế Châu, Hợp Phố, Nam Hai*,
Kể luôn Tượng Quận thẳng dài Thương Ngô….

VI- TÀU ĐÔ HỘ VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT

Lần đầu Bách Việt nhục ô,
Hán Mông cai trị ác ôn kinh hoàng!
Dân ta đau khổ lầm than,
Anh hùng yêu nước, tham tàn giết đi,
Đánh tan dẹp hết một khi.
Tài nguyên chiếm hết, gian thì láu lách,
Bao nhiêu văn hóa Việt Bách,
Bao nhiêu thợ giỏi cắp nách về Tàu.
Bao nhiêu lý thuyết cao sâu*,
Các Ngài Tiền Sử Việt*, Tàu mê ly:
Thần Nông, Oa Nữ, Phục Hy….
Tàu thì chiếm lấy làm tiên sư mình.
Bao nhiêu người đẹp tiết trinh,
Chúng ôm trọn gói phỉ tình trêu ngươi.
Dân ta không được mở lời,
Tổ tiên để lại, khôn đời nào phai.
Bao công trình bao của cải,
Từ nông nghiệp học miệt mài nghìn năm,
Từ luân lý đến hôn nhân,
Nhân quyền nam nữ đến nhân cách người,
Chúng đều đánh phá tơi bời.
Để rồi Khổng tử đem dời vào sách,
Phát thành văn hóa Trung Quốc*.
Để đem dạy lại dân mình nhân văn* !?
Dạy thêm nông nghiệp lần khân*,
Cho rằng Bách Việt ngu đần xưa nay,
Có Hán Mông là thầy hay* !
Làm nên những việc khi thầy chưa sinh*!!!?

VII- TRƯNG TRẮC, ĐỆ NHẤT ANH HÙNG VIỆT NAM

Thời ấy tại huyện Mê Linh
Có quan Lạc tướng hiển vinh anh hùng,
Một mình hùng cứ một phương,
Vốn là con cháu vua Hùng tự xưa.
Vợ là Man Thiện* say sưa
Cùng hai con gái* sớm trưa luyện tài.
Tài văn tài vỏ bền dai,
Mưu lòng đánh lấy thẳng dài núi sông.
Sức còn yếu, lý chưa thông,
Rủi thay Lạc tướng bệnh thâm âu sầu.
Man Thiện đành phải mưu sâu,
Tìm người cùng hội để cầu liên minh.
Gặp ngay dòng giỏi Sơn Tinh,
Thi Sách họ Đặng vốn tình xưa nay*,
Bèn đem gái chị gả ngay,
Hầu mong kết nghĩa chống ngay quân thù.
Trưng Trắc là gái anh thư,
Nên duyên họ Đặng, như cờ gặp phong.
Man Thiện truyền lại cho con,
Phong làm nữ tướng ra công liên hoàn,
Thi Sách quân đội rỡ ràng,
Cùng Trưng Trắc kết hai đoàn quân trang,
Tiến lên chiếm lấy giang san,
Hầu mong đuổi thẳng tham quan Hán thù.
Chẳng may Thi Sách mắc mưu,
Sa trường thân ngã quân thù giết đi.
Trưng Trắc kế hoạch tức thì,
Chiêu hiền chín quận* chủ trì hợp quân.
Tướng nam tướng nữ chia phân,
Binh nam binh nữ ước gần mấy muôn.
Trưng Trắc vừa mới khai quân,
Giết ngay Tô Định lập nên công đầu,
Bốn phương đem hết sức cầu,
Nàng lên tướng soái giặc sầu tan binh.
Nhiều năm mãi miết chiến chinh,
Trăm sáu hai tướng* kết tinh kết tài,
Gồm thâu phương đông phương đoài*,
Sáu mươi thành củ* đoạt tài một khi.
Mời Man Thiện đứng chủ trì*,
Làm quyền cai quản chuẩn chi nước nhà.
Ít năm Man Thiện đưa ra,
Ý tâm từ giả ép mà cho Trưng*,
Tướng tướng đồng ý tôn vưng
Trưng Nhị làm Soái, Trưng Vương vua Bà*.
Trưng Trắc phong tước cho cha,
Phong khanh phong tướng, câu ca khải hoàn.

VIII- VĂN HÓA THỜI NHÀ TRƯNG

Sửa sang nước trị dân an,
Phát triển kinh tế* đầy tràn nơi nơi.
Làm đường* làm giấy* sáng tươi,
Đúc đồng làm trống* quyết khôi phục nhà*.
Trồng rau trồng lúa trồng trà*,
Là bao di sản mẹ cha đã làm*.
Đặt tên là nước Lĩnh Nam*,
Lập nên luật pháp* bình an nước nhà.
Lập nên một cỏi kiêu sa*,
Luật nước là luật dân ta bình quyền*.
Từ học hỏi đến thợ thuyền,
Từ chia ruộng nước đến quyền công dân,
Ai tài thì cứ dấn thân*.
Không theo lối sống Hán Mông* hại người.
Cố sức hành hạ nữ* thôi,
Cố bắt giới nữ làm người ‘phụ’ nhân,
Không cho học*, cấm tiến thân*,
Chỉ làm hàng ngủ ngu dân* cúi đầu.
Với bao công khó dài lâu,
Trưng Vương tìm cách cất đầu cho dân*.
Thế mà sử liệu lần khân*!!
Theo Tàu mà nói lằng nhằng vua Nam*.
Rằng ba năm* Trưng Vương tàn.
Một đất nước mới huy hoàng dựng xây :
Ai làm nên được như vầy*,
Phát luật có đủ, dựng xây nên đời,
Nông nghiệp kinh tế* hơn người,
Làm sao cho nổi, ngôi trời ba năm.
Chính gian Hán tộc manh tâm,
Cố xuyên tạc bậy, khiến dân mình lầm.

IX- TÀU XUYÊN TẠC LỊCH SỬ NHÀ TRƯNG

Ngàn năm đô hộ đâm mầm,
Khiến cho dân Việt quên dần công ai :
Đã ra tay đuổi lang sài,
Dựng nên nghiệp lớn danh hoài năm châu.
Sử ta chỉ nói vài câu !!?
Coi ra thật nhẹ công đầu Trưng Vương !?
Lòng ta thật quá buồn thương!!
Đệ nhất truy tặng Trưng Vương anh hùng.
Cầu mong dân Việt tỉnh bừng,
Mở mắt xem lại công trình Trưng Vương.
Sử sách chép lại làm gương,
Chứng từ đầy đủ*, chớ đừng viết sai*.
Nghe quân thù ghét nữ tài*,
Là quân Mông Hán ganh tài nữ lưu*.
Sử ta phải sử chính ưu*,
Kẻo hoài tăm tiếng nữ lưu anh hào*.
Trưng Vương đánh thắng giặc Tàu,
Trên đất Việt tổ* đứng đầu sử xanh*.
Suốt ngàn năm giặc nhe nanh*,
Nuốt lần* đất tổ hiền lành trời cho.

X- DÀNH LẠI VĂN HOÁ NHU THUẬN CHUNG (ĐẠO VIỆT = VIỆT NHU  = VIỆT NHO) CỦA TỔ TIÊN BÁCH VIỆT CHUNG (VIỆT CỔ)

Đất còn chữ S phất phơ*!
Nhưng văn hoá cổ* vẩn chờ đợi ta.
Chớ để mất văn hoá* nhà,
Tổ tiên Siêu Việt nước ta khởi đầu*. 
Tiến lên dành lại với Tầu*.
Tiến lên dành lại kẻo sầu lòng nhau.
Văn hoá tiền sử khắc sâu*,
Tổ tiên Việt Tộc gối đầu dạy con*:
Dạy cho hậu duệ vuông tròn,
Nắm cương lĩnh củ, một lòng thuận nhu.
Làm nên Tộc Việt tối ưu,
Để cho tiên tổ khỏi ưu sầu lòng;
Kẻo công tiên tổ cầu mong ??!!
Bốn ngàn văn hiến đâu lòng lảng quên.
Phải thực thi, ngay nhản tiền,
Đạo trời nhu thuận, của tiền nhân cho.
Ấy chính là đạo VIỆT NHO*;
Hán Mông cướp lấy, bỏ kho trưng bày*,
Rằng riêng ta : ‘Văn Hoá đây,
Hán Nho lành mạnh, nghĩa tày trời cao*!?’
Dửng dưng nghếch mặt tự hào*!
Mà rồi chúng chẵng ngày nào thực thi*.

XI- XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRUNG HOA CƯỚP HÃI THỔ VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA* 

Lại còn đánh cướp tiếp thâu* :
Hoàng Trường Sa đảo*, khắc sâu thương lòng*.
Lại còn ức hiếp tử vong*,
Một  Đài Hải Thổ* Tổ tông của mình*.
Lời ta lời nói phân minh*,
Biết điều trả lại, kẻo sinh bất bình*.
Trung Hoa quả thật lớn xinh*,
Tham chi thước đất* bạn tình* ốm teo,
Để cho thế giới cười nhèo!,
Rằng ‘thiên tử’ cướp con heo thằng Bờm*. 

Kỳ sau : Các dấu [*] sẽ được chú thích và đưa ra
cứ liệu khoa học về tiền sử,  về sự nghiệp Nhà
Trưng và đưa ra bản đồ nước Xích Quĩ và Lĩnh Nam vv.
Xin mời quý bạn đón xem.

Brossard Québec Canada 10/4/2006
Ts. Bs. Trưng Triệu Thanh Nguyễn Thị Thanh


Nam Hải va Hợp Phố (Quảng Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu
> Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật
> Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).


Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire