samedi 5 décembre 2015

Việt Cộng cắt đất bán biển cho giặc Tàu khiến ngư phủ VN bị bắn giết hằng ngày trên Ðông Hải





Việt Cộng cắt đất bán biển cho giặc Tàu
khiến ngư phủ VN bị bắn giết
hằng ngày trên Ðông Hải



MƯỜNG GIANG


Ngược dòng lịch sử dân tộc, ta biết vào thế kỷ thứ 2 trước tây lịch, Việt Nam lúc đó là Nhà Triệu ố Quốc Hiệu là Nam Việt, có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Ðảo Hải Nam, Bắc Việt và miền bắc Trung phần ngày nay. Vì bị vua Triệu Ai Vương cùng mẹ là Cù Thị, vốn là người Hán, toa rập bán đứng để đầu hàng ngoại bang. Do trên, Nam Việt đã bị nước Tàu cưỡng chiếm , đổi thành Giao Chỉ Bộ. Từ đó qua mười thế kỷ bị đô hộ, dân tộc ta nội thuộc nước Tàu như một quận huyện và đã trải qua những tháng ngày lầm than tủi nhục, dưới gông cùm nô lệ, bốc lột áp bức, man dã tàn độc, lên rừng chặt quế kiếm ngà voi, xuống biển mò châu đãi ngọc, để giặc mang về bản thổ làm giàu. Sựỳ khổ hận của người nô lệ Việt, dưới gót sắt của đế quốc Hán, đã không có bút mực nào diễn tả cho hết được. Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, gây cảnh nội chiến, khiến cho đất nước, lần nữa lại rơi vào vòng nô lệ của giặc Mình, từ năm 1414-1427. Cũng may nhờ có Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, cầm đầu nghĩa quân cả nước, kháng chiến gian khổ trong mười năm ròng rã, mới đánh đuổi được giặc Minh chạy về Tàu, khôi phục lại non nước Tiên Rồng vào năm 1428 cho tới ngày nay. Ðể nói lên nổi thống khổ của dân tộc Việt, dưới ách bạo tàn , vô nhân đạo của bọn xâm lăng, đế quốc Tàu, qua mười mấy năm chiếm đóng. Nguyễn Trãi đã viết trong “ Bình Ngô Ðại Cáo “:
            “ Quyết Ðông Hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô.
             Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác
             Ðộc ác thay trúc rừng không ghi hết tội
             Dơ bẩn thay nước bể không rửa sạch mùi “
             Tóm lại sinh mệnh của dân tộc Việt ,qua suốt dòng lịch sử, đã không ngừng tranh đấu chống lại nền thống trị của giặc Tàu, tạo nên bản chất quật cường-bất khuất, mà người Việt coi như một thứ tôn giáo của dân tộc mình. Do phần lớn các nước vùng Ðông Nam Á theo tam giáo Phật, Nho và Lão, trong đó có Trung Hoa và Việt Nam, theo các phong tục, tập quán gần giống nhau, nên rất khó phân biệt chủng tộc, ngoại trừ tiếng nói và chữ viết. Trường hợp này cũng đả xảy ra giữa Nhật Bổn-Triều Tiên và Lào-Thái. Lại thêm VN bị Bắc thuộc gần 1000 năm, nên sau này nhiều người đã ngộ nhận, cho là ta bị Tàu đồng hóa. Thật sự, qua hai mươi thế kỷ chống giặc Tàu xâm lăng, người Việt đã phát triển được một chiến lược kỳ diệu hữu hiệu.Ðó là vừa cứng rắn bảo vệ đất nước, đồng thời cũng rất mềm dẻo, khôn ngoan, thực tiễn khi chấp nhận đứng trong quỹ đạo của người Tàu, học hỏi những điều hay sự tốt, vừa tránh được phương Bắc kiếm cớ xen ngó nội tình. Cho nên đừng ngạc nhiên, khi thấy nước ta vừa chiến thắng quân xâm lăng, lại phải sang triều cống, thần phục lấy lệ trong cung cách ngoại giao, chính trị. Hành động giao hảo khôn khéo trên của các Ðấng Minh Quân mọi thời trong dòng lịch sử Việt, khác hẳn với sự bưng bợ cầu cạnh và đầu phục kẻ thù cướp nước, mà Hồ Chí Minh cùng băng đảng, luôn khua và cuồng điệu, là chính sách đi giây, để cho tình hai nước thắm thiết vững bền. Luận điệu tôi tớ trên, từ năm 1930 cho tới ngày nay vẫn không hề thay đổi, dù VN đã hết chiến tranh và là quốc gia có chủ quyền, độc lập cũng như sức mạnh quân sự, tuy có thua kém giặc Tàu nhưng nếu kết hợp được toàn dân, vẫn dư sức bảo vệ được đất nước, bất cứ lúc nào khi ta bị xâm lăng.
            Mùa thu tháng 8 năm 1945, vừa chiếm được chính quyền, Hồ Chí Minh cùng đảng cọng sản VN, qua hiện thân của Mặt Trận Việt Minh, đã tìm đủ mọi cách giúp quân Pháp từ Nam Kỳ, đổ bộ lên miền Bắc. Sự hiện diện của thực dân Pháp lúc đó, đã giúp Việt Minh hợp pháp chính quyền, đang bị sự chống đối mãnh liệt, của các đảng phái quốc gia. Cuối năm 1949, Mao Trạch Ðông chiếm toàn bộ nước Tàu, đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Ðài Loan. Ngày 10-1-1950, Trung Cộng tức Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, là nước đầu tiên trên thế giới công nhận Việt Minh . Sau đó, Hồ Chí Minh bí mật sang Tàu xin viện trợ và được đàn anh đáp ứng đầy đủ, từ A ố Z ( kể cả quan tướng chỉ huy trận Ðiện Biên Phủ năm 1954), qua hai cuộc chiến Ðông Dương từ 1950-1975. Cũng từ đó, VC đã trở thành nô lệ của Trung Cộng,vì viện trợ và nợ nần, nên bí mật hứa hẹn đủ điều, trong đó có việc cắt đất để đền đáp ơn nghĩa. Làm đầy tớ ngoại bang trắng trợn nhưng ngoài mặt thì đóng kịch, qua các danh từ hoa mỹ “ quan hệ xã hội chủ nghĩa anh em, sông liền sông núi liền núi, môi hở răng lạnh .” để ca tụng sự thắm thiết giữa hai đảng cọng sản quốc tế. Ngày 1-5-1975, sau khi tóm thâu được toàn bộ VN, cọng sản Hà Nội theo Liên Xô, phản bội Trung Cộng tính quịt nợ, nên thù hận giữa hai đảng bốc cháy từ đó. Tháng 12-1978, VC sang lật đổ Polpot, vốn là đàn em của Ðặng Tiểu Bình , nên bị Trung Cộng trả đũa, gây cuộc chiến Hoa-Việt, tại biên giới vào tháng 2 và 3-1979, giết chết cả trăm ngàn binh lính của hai phía cũng như đồng bào vô tội. Các tỉnh thượng du Bắc Phần như Lào Kai, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Hải Ninh, Lạng Sơn và Tuyên Quang bị Trung Cộng san thành bình địa, cũng như cướp bóc, chiếm đất, để trừ nợ cũ mà Hồ Chí Minh và VC đã vay từ trước tới nay. Tình giao hảo giữa hai đảng coi như rút cầu đóng cửa, trong suốt thời gian từ 1980-1991, khi VC theo hẳn Liên Xô và gia nhập khối kinh tế Ðông Âu, mở các quân cảng Cam Ranh, Ðà Nẳng, Hải Phòng cho Hạm Ðội Liên Xô vào trú đóng, mong dựa lưng chủ mới Nga, chống lại Tàu .
            Năm 1991 toàn bộ hệ thốngxã hội chủ nghĩa suy sụp tại Liên Xô, Ðông Âu và nhiều nước trên thế giới, khiến cho VC vì muốn cứu đảng, nên phải quay về chầu phục chủ củ là Trung Cộng. Ðể được tha tội cũng như có chỗ dựa lưng, hầu giữ vững đảng và miệng ăn, nên VC đã đem chủ quyền quốc gia dâng bán cho kẻ thù không đội trời chung là giặc Tàu, qua nhiều lần mờ ám bí mật, cắt đất tại biên giới cũng như ký nhượng nhiều hải đảo, hải phận, trong biển Ðông Hải, vốn là nơi có nhiều hải sản, dầu khí, tài nguyên của Dân Tộc Việt. Cũng từ đó, đồng bào cả nước khốn đốn vì sự chèn ép của phương bắc, trước sự bất lực của chính quyền Ðảng, chỉ biết xâu xé nội bộ, tranh giành quyền lực để được làm tay sai Mỹ hay Tàu, tham nhũng hầu vinh thân phì gia mà thôi.
            Sau ngày 30-4-1975, Biển Ðông đã trở thành cơn hồng thủy chôn vùi không biết bao nhiêu mạng sống của đồng bào cả nước, khi liều chết đi tìm tự do, vì sóng gió bão táp và hải tặc Thái Lan. Từ năm 2000, VC bí mật ký bán sang nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Cộng, Nam Dương, Kampuchia và Thái Lan. Sự kiện trên, đã đẩy ngư phủ VN đi vào ngõ cụt vì ngư trường bị thu hẹp và thảm nhất là Nạn Tàu Ô hoành hành khắp nơi, từ Móng Cáy vào tới Hà Tiên. Mới đây, báo Thanh Niên tại Thành Hồ cho biết : Vào ngày 11 ố 12/01/2005, trong khi các ngư dân VN đang hành nghề trên lãnh hải của quốc gia mình, tại Vịnh Bắc Việt, thi Hải Quân Trung Công ào tới, bắn chết 9 người, làm bị thương nặng 7 ngư phủ khác. Sau đó, giặc bắt đi 8 người khác, kể cả xác của 9 người chết, cùng nhiều thuyền của đồng bào, để chờ đem đô la tới Hải Nam đổi. Biến cố nhục nhã trên, được đảng VC phản đối lấy lệ, còn Tàu Cộng thì chụp mũ cho dân ta là hải tặc, tới cướp tàu của chúng nên bị hải quân trừng trị.. Trưóc thảm nạn người chết, chủ quyền bị đe dọa, Thủ tướng VC Phan Văn Khải đã không một lời phản đối, trái lại trước phái đoàn quốc hội Tàu Cộng, đang có mặt ở VN, Y lại khẳng định “ tình hai đảng luôn khắng khít “.Ðể phụ họa vở kịch bi hài, cười ra nước mắt, phó chủ tịch Quốc Hội VC là Trương Quang Ðược, thì hoan hô “ tình hai đảng núi liền núi, sông liền sông “.Hành đông vô trách nhiệm qua lời tuyên bố trơ trẽn của hai lãnh đạo đảng, trước mặt giặc Tàu đang hiện diện ở VN, khiến đồng bào trong và ngoài nước, đều bàng hoàng ngao ngán, ai cũng gục đầu xấu hổ, hận hờn nhục nhả, cho quốc gia dân tộc mình, luôn gặp nổi bất hạnh nhược tiểu, vì bị sâu bọ đội lớp người cầm quyền nước.
            Thì ra chỉ có tại thiên đường xã nghĩa của nhà Hồ, ai chết mặc bây, nên ngư dân VN lãnh đủ
1 Non nước ngậm ngùi vì Ðảng bán đất dâng biển cho Trung Cộng :
          Dựa theo các nguồn sử liệu hiện nay, khi viết về nguồn gốc của dân tộc VN, đều cho rằng Người Việt là một trong những dân tộc dũng cảm nhất trên thế giới, vì đã được hưởng nhiều đặc tính quý báu, qua sự pha trộn của nhiều chủng tộc, trong đó có nòi giống Mông Cổ, Bách Việt và Nam Á Ða Ðảo. Bởi vậy suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm, người Việt đã đương đầu nổi với nhiều cuộc xâm lăng diệt chủng của Tàu, Chiêm Thành, Lào-Thái, Cao Mên, thực dân Pháp-Nhật và nay là chủ nghĩa vô thần của đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Bởi vậy ngay từ buổi bình minh dựng nước, người Việt qua quốc hiệu Văn Lang, đã thạo thủy chiến, quen dùng thuyền, thời gian sống trên cạn ít hơn ở dưới nước, vì biển rạch sông hồ, vốn là những nơi chốn thân thương của linh hồn đất Việt.
            Chúng ta là con cháu của Lạc Long Vương và Mẹ Âu Cơ, đã theo cha ra biển và lâp thành nước Văn Lang, có nền văn minh phát triển từ sông nước. Do trên ngoài nông nghiệp, việc khai thác hải sản trên sông biển, vẫn là tiềm năng kinh tế muôn đời của dân tộc Việt.
            Nên biển muôn đời vẫn là không gian sinh tồn của dân tộc, là bức trường thành “ nước “ bảo vệ non sông gấm vóc Việt. Vì vậy trong suốt lịch sử giữ nước chống ngoại xâm, sức mạnh của Hải Quân Việt Nam, đã tạo nên những chiến thắng đẹp nhất, làm vẻ vang người Việt, đất Việt, khiến cho con cháu ngày nay, mỗi lần đọc lại những trang sử cũ, đều cảm nhận sự hãnh diện trân quý, đối với tổ tiên mình. Những đia danh Bạch Ðằng, Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử,Hội An, Rạch Gầm, Nhật Tảo và mới đây vào đầu năm 1974 tại quầm đảo Hoàng Sa.. muôn đời sống đẹp trong hồn người, nhất là dòng sông thiêng Bạch Ðằng, nơi xứ Bắc mà nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần, đã không ngớt lời khen tặng :”Vũ trụ kỳ quan, Dương Cốc nhật. Giang san vượng khí Bạch Ðằng thâu “.
            Ngày nay VC đang làm chủ một cõi non sông gấm vóc, do tổ tiên đã dựng và gìn giữ qua bao đời, bằng xương máu và nước mắt. Ðất nước ta trải dài trên bờ Thái Bình Dương, chạy dài trên 3300km với non xanh nước biếc thật hữu tình. Sau lưng là bức tường thành Trường Sơn hùng vỹ, còn đất đai thì chạy suốt từ Ải Nam Quan tới tận Mui Cà Mâu. Biển VN còn có một thềm lục địa rộng trên 2 triệu km2 và 4000 hòn đảo, mà lớn nhất là hai đảo Phú Quốc, Phú Quý, có diện tích gần bằng Tân Gia Ba. Nơi nào trên biển cũng đều có một triển vọng to lớn về khả năng khai thác khí đốt và dầu thô. Tóm lại, nếu là những vị lãnh đạo yêu nước có tài đức, chắc chắc họ sẽ nhận ra ngay thực trạng của nước ta, người đông đất ít, nên tương lai của xứ sở, đều do biển quyết định.
            Nhưng đảng vốn hồng hơn chuyên, mục đích dấn thân ra làm cách mạng, liều chết chỉ mong cướp được chính quyền để đổi đời. Cho nên không cần phải nghiên cứu hay bảo vệ biển của mình, khi cái ăn vẫn còn trước mắt. Ðó là thực trạng của sự khai thác hải sản, bừa bãi trên Ðông Hải, gần như lạm phát vô kỹ luật, từ sau năm 1975 tới bây giờ. Tóm lại tất cả đều là nỗi đau lòng, ngậm ngùi non nước, từ sự kê khai tổng trọng tải của hàng chục ngàn ngư thuyền cả nước, nhưng thực tế chưa bằng 1/10 tàu thuyền đánh cá của các nước trong vùng. Về sản lượng khai thác trên biển hiện nay của ngư dân VN, theo quốc tế, còn thua xa các nước Nhật, Péru, Ðài Loan, Ðài Hàn cả Thái Lan, của 25 năm về trước. Trong lãnh vực kinh tế, VN hiện có 62 hải cảng lớn nhỏ cả nước, nhưng con số chỉ nhằm phô trương, nhiều cảng cá xây lên để chia nhau ăn xén ngân khoản, sau đó bỏ hoang như ở Cà Mâu, không nói lên được điều gì cái uy thế quan trọng, của một nước VN từ bao đời, luôn là một vị trí trung tâm của hải đạo bắc-nam, vùng Châu Á Thái Bình Dương. Ðồng thời cũng là cửa ngõ ra biển của Lào và nhiều tỉnh miền Nam Trung Hoa như Qúi Châu, Vân Nam và Quảng Tây, qua các đường sông Hồng Hà, sông Mã và sông Cả. Từ năm 1995, VN đã bắt đầu sản xuất dầu khí tại các mõ trên thềm lục đỉa nước ta, tại biển Nam quanh Côn Ðảo và quần đảo Trường Sa. Việc khai thác khí đốt cũng đã bắt đầu tiến hành từ đầu thập niên thế kỷ XXI. Ðây mới là nguyên nhân chính, để hai nước xã nghĩa anhem, càng nhích lại gần hơn, để đồng chí chia nhau hưởng lợi, sau hơn một thập niên ghẻ lạnh hận thù.
            Vì lý do trên, nên VC chẳng những đã không lo bảo vệ non sông gấm vóc của dân tộc, trái lại còn bí mật ký kết bán nhượng biển, nhiều lần với Trung Cộng, Thái Lan, Nam Dương.. làm mất nhiều chục ngàn cây số vuông lãnh hải, trong vịnh Bắc Việt và Thái Lan. Ngày 25-12-2000 VC âm thầm ký kết với Trung Cộng, cái gọi là Hiệp Ðịnh Phân Ðịnh Vịnh Bắc Bộ. Vì bị dân chúng trong và ngoài nước phanh phui, công phẫn phản đối dữ dội, liên tục từ Hiệp đinh biên giới làm mất đất đai, trong đó có Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc.. và kế tới là chuyện bán biển, nên tổng trưởng ngoại giao VC là Nguyễn Dy Niên, đã phải lên tiếng giải thích, khi Hiệp Ðịnh trên, nói là có hiệu lực kể từ ngày 30-6-2004. Theo nhận xét của tất cả các học giả, sử gia, luật gia trong cũng như ngoài nước, đặc biệt là báo chí Pháp, đều lên tiếng phê phán và cười chê đảng VC, khi đã cả gan nhân danh kẻ cầm quyền, để ký với giặc thù truyền kiếp của dân tộc là Trung Công, trong tình trạng bình thường của hai quốc gia độc lập, một hiệp định vô lý và bất bình đẳng nhất thế giới. Ngày xưa, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh, chỉ vì trong thế kẹt vạn bắt đắc dĩ, nên bó buộc phải ký dâng đất cho giặc. Thời nhà Nguyễn, Vua Tự Ðức cũng chỉ vì thua kém quân sự, nên buộc lòng phải ký kết những hiệp ước vô lý với kẻ thù. Thực dân Pháo trong thời gian đô hộ nước ta, vì quyền lợi của chúng, cũng cắt nhiều đất của VN cho Tàu tại biên giới, đó là điều không thể tránh được với một quốc gia đã mất chủ quyền. Thời VNCH, chịu mang tiếng là đánh giặc mướn cho Mỹ để kiếm cơm, nhưng qua 20 năm tồn tại, từ TT Diệm cho Nguyễn Văn Thiệu, đã không hề bán nhượng hay làm mất một phân đất của tổ tiên, ngoại trừ tháng 1-1974, qua áp lực của Mỹ và bị VC đâm sau lưng, nên để mất quần đảo Hoàng Sa trong máu lr65.
             Do trên, cả nước phải nặn óc đi tìm động cơ, đã khiến đảng VC phải liều mạng hành động bán nước. Bởi vì trong lúc cầm bút ký vào văn kiện, những chóp bu của đảng từ Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương và Phan Văn Khải, sau đó đều trở thành tỷ phú đô la, gần như bị bắt buộc, để cố tình bỏ qua những yếu tố lịch sử về Vịnh Bắc Việt, về biên Ðông của VN, đã có tự ngàn năm trước. Tóm lại Trung Cộng và VC đã đồng thuận sử dụng luật rừng khi ký kết, mà bất chấp công lý, luật lệ và những công ước quốc tế, liên quan tới sự phân đinh lãnh hải giữa hai nước, vốn đã có từ lâu đời. Có như vậy, những chóp bu của đảng VC, nói là lương tháng chỉ lãnh có 250 tiền US, nhưng ai cũng được xếp vào hàng tỷ phú thế giới hiện nay.
            VC vì quyền lợi cá nhân và đảng, đã gây thiệt hại cho quốc gia về lãnh thổ, cho dân tộc trong danh dự và trên hết là tạo sự bất hạnh cho đồng bào ngư phủ VN, khi phải hành nghề trên biển cả, nhưng không biết đậu mà mò, đến nỗi phải bị giặc Tàu bắn chết, vì tội xâm phản lãnh hải của chính nước mình. Hỡi ôi, chỉ vì muốn được làm nô lệ cho Trung Cộng, đảng VC đã làm mất của VN hơn 11.930 km2 biển. Riêng Hiệp Ðịnh gọi là Hợp Tác Nghề Cá, chưa hề được quốc hội thảo luận, cũng như biểu quyết phê chuẩn, nhưng VC lẫn Trung Cộng vẫn tuyên bố, cùng có hiệu lực như Hiệp Ðịnh Vịnh Bắc Bộ vào ngày 30-6-2004, mà hậu quả trước mắt là cảnh dân chúng bị bắn giết dã mang.
            Tóm lại, từ việc Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng và đảng cọng sản, thừa nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng vào năm 1958, cho tới những hiệp ước bất bình đẳng về việc phân định và hợp tác đánh cá trong vịnh Bắc Bộ, VC coi như đã dâng hiến toàn bộ hải sản, dầu khí của quốc gia cho giặc Tàu.
2 Máu lại nhuộm biển Ðông, khi giặc Tàu giết Ðồng Bào VN :
          Ngay khi nhận được tin, ngày 12-1-2005, giặc Tàu ngang nhiên bắn chết tại chỗ, Chín Ngư Phủ tỉnh Thanh Hóa, cũng như gây cho bảy người sống bị trọng thương, trong lúc đồng bào đang hành nghề đánh cá thường nhật, trong vùng biển quen thuộc tại Vịnh Bắc Việt, chính quê hương của mình. Trung Cộng còn tàn nhẫn tịch thu một tàu đánh cá, xác người chết, mạng người sống bị thương và bắt thêm 8 người khác đem về bỏ tù tại đảo Hải Nam, bất chấp công luận thế giới và những con mắt trao tráo vô hồn của đảng VC. Sau khi nghe VC lên tiếng phản đối, lập tức phát ngôn viên của Trung Cộng là Khổng Tuyên, đã tru tréo vu cáo, ngư dân VN là hải tặc có vũ trang, đã cướp thuyền đánh cá của chúng trên biển, nên giặc phải giết người để tự vệ. Nếu những năm trước đây, cơn hồng thủy biển Ðông, đã đánh thức lương tâm nhân loại, cũng như mở mắt những thành phần mù quáng thân cộng, qua thảm trạng của hằng triệu người VN, đã bỏ thây trong sóng nước, vì bảo tố và sự khủng bố của hải tặc Thái Lan, giữa lúc bỏ quê hương mình đi tìm tự do khắp xứ lạ. Nổi nhục hận hờn căm trên, tưởng đâu sẽ nguôi ngoai, khi VC chịu mở khẩu đổi mới, phần nào mang phúc lợi tới cho đồng bào trong nước, qua sự tiếp nhận nền văn minh nhân loại. Nhưng trời ơi, tất cả chỉ là bọt biển, nhìn vậy mà không phải vậy. Ðổi mới thì ra không phải để cho đồng bào no cơm ấm áo, mà mặt thật là để cứu đảng và giúp cho các thành phần cầm quyền, từ chóp bu ngồi trong bắc bộ phủ, cho tới cán bộ tép riu nơi phường xóm, tham nhũng của công, bóc lột dân chúng và bán nước làm giàu. Bởi vậy đổi mới càng khiến cho máu người Việt đau khổ thêm, khi VC mở biên giới Hoa-Việt, cùng toa rập buôn lậu, buôn người, buôn bán xì ke ma tuý với giặc Tàu, làm cho cả nước khốn đốn trong cảnh đói nghèo, tật bệnh và hủ bại trước những tệ đoan xã hội, mà Trung Cộng xuất cảng sang, mục đich đầu dộc người Việt thành bạc nhược, tha hóa, không còn lý trí để nghĩ tới sự chống xâm lăng khi giặc tới nhà. Ðổi mới, để giặc Tàu, qua bọn văn nô VC tay sai, phổ biến văn hóa Hán Tộc tràn lan khắp nước tới hải ngoại, để đồng hóa người Việt, một sự nghiệp mà chúng đã hoàn toàn thất bại trong quá khứ.
            Nhưng đỉnh cao nhất của thời đại chúng ta, là VC đổi mới để hợp thức hóa, nhưng cam kết bí mật với giạc Tàu, từ thời kỳ 1930 cho tới nay, qua các văn kiện chính thức được ký kết bởi các chóp bu đảng từ Hồ Chí Minh tới Nông Ðức Mạnh ngày nay.
            Dựa vào những văn kiện mà VC đã ký kết từ năm 1958 tới nay, Trung Cộng lấn áp và đẩy VN vào thế chẳng đặng đừng, không thể nào lên tiếng hay phản đối. Ta biết dù năm 1982, các nước đã nhóm họp để ký công ước về luật biển, luật trời. Theo đó, thì khu vực phía nam, từ cửa sông Cồn Cỏ vào Mũi Cà Mâu, được xác định là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN. Nhưng Trung Cộng lại vin vào văn kiện năm 1958, do Phạm Văn Ðồng, lúc đó nhân danh là thủ tướng nước VNDCCH, ký xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đang thuộc chủ quyền VNCH, là Tây Sa và Nam Sa của Tàu. Bởi vậy Trung Cộng ngang nhiên, cấm VC cho đấu thầu các lô tìm dầu và khí đốt, ngoài khơi hai tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa. Mới đây, khi liên doanh dầu khí VN và Mã Lai, loan báo đã tìm ra mỏ dầu và khí đốt rất lớn, trong vịnh Bắc Việt. Thấy dầu tối mắt, nên vài tuần sau Trung Cộng đem dàn khoan Kantan 3 vào hải phận VN, công khai hoạt động từ ngày 9/11 tới ngày 31-12-2004 và cho biết sẽ thảo luận sau.
            Trong lúc đó, hằng ngày tàu thuyền đánh cá và hải quân Trung Cộng ngang nhiên vào hải phận nước ta hành nghề hay cướp bóc, giết người, gây thiệt hại về tài sản và sinh mệnh cho các ngư phủ từ Thanh Hóa vào Ðà Nẳng-Quảng Ngải, trước sự đồng tình hay phản ứng lấy lệ của những Ðơn Vị bộ đội biên phòng. Ngoài khơi tỉnh Kiên Giang, hải tặc đội lớp sĩ quan binh lính Kampuchia, vượt biên giới vào hải phận VN dùng súng đạn giết bắn người, đồng thời bắt tàu thuyền đánh cá của ngư dân ta, đem về nước chờ đem tiền tới chuộc. Do trên đã có không biết bao nhiêu vụ đụng độ đẫm máu giữa ta và bọn cướp biển, quanh quần đảo Hải Tặc và Phú Quốc.
            Ta biết từ trước tới nay, Kiên Giang và Bình Thuận là hai vựa cá lớn nhất của VN. Tỉnh Kiên Giang hiện có diện tích 6248 km2, gồm có 5629 km2 đất liền và 619 km2 đất đảo, nằm về hướng tây nam, hiện sáp nhập luôn tỉnh Hà Tiên, nên dân số tính tới cuối năm 1999 là 1.494.433 người. Biển Kiên Giang có lãnh hải rộng 63.290 km2, bờ biển dài 200km, với 105 đảo lớn nhỏ. Riêng Hà Tiên có 54 km, chung biên giới với Kampuchia. Ngoài khơi Phú Quốc có quần đảo Hải Tặc, nổi tiếng hung hiểm cả trăm năm qua. Thời Pháp thuộc, đảo Hải Tặc có tên hành chánh là làng Tiên Hải. Tên này nay vẫn giữ nguyên và trực thuộc Huyện Hà Tiên. Ðây chính là sào huyệt của bọn cướp biển quốc tế, gây nên các vụ cướp bóc, giết người trên các thuyền buôn tứ xứ, thường tới trao đổi mua bán ở các Hòn Kiến Vàng, Keo Ngựa, Trực Mâu, Long, Ðước, Ðốc.. quanh đảo Phú Quốc, trong vịnh Thái Lan.
            Sau tháng 5-1975 thời Hồ, đường ranh giới biển giữa VN và Kampuchia, được hai nước công nhân, tính từ Hòn Keo Ngựa (huyện Hà Tiên) tới Hòn Ðốc (huyện Phú Quốc). Khác với thời VNCH có lực lượng Hải Quân hùng mạnh, nên đã kiểm soát được gần nhừ hải phận của VN. Trái lại trong 30 năm qua, vùng này bị hải tặc cướp bóc lộng hành như chỗ không người, vì VC đâu có rãnh lo đến sự an nguy và sinh mệnh của dân chúng, khi từ lớn đến nhỏ bận tham nhũng để làm giàu. Ðọc báo chí VC trong nước, được biết chỉ riêng trong năm 1995, tại biển Kiên Giang đã có 17 lần đánh cướp tàu thuyền đánh cá của ngư phủ VN, mà thủ phạm là bọn hải tặc Kampuchia đội lớp hải quân Miên. Năm 1998, có 60 vụ cướp nhắm vào 138 ngư thuyền VN. Trong các vụ án trên, vụ cướp biển vào ngày 23-9-1998, được coi là nghiêm trong nhất. Trong vụ này, hải tặc Miên dùng một tàu lớn treo cờ hải quân Kampuchia, bắn phóng lựu và Ak47 vào một tàu đánh cá VN, đang hành nghề trong hải phận Kiên Giang. Tàu này mang số KG8065B, vừa chống cự và chạy trối chết về Phú Quốc, làm một ngư dân thiệt mạng. Tóm lại bọn cướp biển đang hoành hành trong hải phận VN ngày nay, rất đa dạng, phía bắc là bọn Tàu Ô-Trung Cộng, còn ở mạn Nam là đám hải tặc Kampuchia. Chúng thường đội lớp hải quân, có tàu thuyền rất tối tân, loại Hino gắn thủy động cơ 6 bloc và còn chở thêm nhiều canô, chạy máy 50 ngựa. Trên tàu được trang bị đủ loại vũ khí như súng phóng lựu M79, đại liên M60, tiểu liên AK47, lưu đạn Mini, thủy pháo và máy bộ đàm HT10, liên lạc với nhau để báo động, ăn hàng hay chém vè khi bị nguy cấp. Nhưng đâu phải chỉ có hải tặc Kampuchia, mà còn có bọn cướp biển quốc tế, trong đó có lũ Tàu Ô cũng tới cướp bóc giết ngư dân VN trong vùng biển Kiên Giang. Năm 1996, biên phòng tỉnh này qua nguồn tin từ Mả Lai Á, đã chận bắt được một tàu cướp xuyên quốc gia của Trung Công, mang số D4460 với 25 tên cướp do một sĩ quan chỉ huy, tại vùng biển gần đảo Thổ Châu. Hà Nội sau đó, đã trả lại 25 tên giặc Tàu cho Trung Cộng.
            Ngày nay Trung Cộng là một trong 17 nước có tàu đánh cá với trọng tải trên 100 tấn và xếp hàng đầu vì số lượng tàu chiếm tới 40%, bỏ xa Hoa Kỳ (chỉ có 5%), Nhật (3%) và Nam Hàn (2%). Ngoài ra tất cả tàu đánh cá của Trung Cộng, đều được trang bị
các loại lưới có tầm bắt cá tới 50 hải lý. Do trên, tàu đánh cá Trung Cộng, chỉ cần tới những biển, mà VC đã ký nhượng dâng bán cho giặc Tàu, được gọi qua danh từ hoa mỹ là “ vùng đánh cá chung “, để neo tàu, bủa lưới, là có thể tóm gọn hết hải sản toàn vùng của VN, từ Thái Bình vào tới Quảng Tri. Trong vùng biển giàu có lớn nhất của ta hiện nay tại tỉnh Bình Thuận, tàu đánh cá Trung Cộng được ngư dân địa phương gọi là “ hung thần trên biển cả “, ngày ngày cào, vơ, quét sạch những gì có trong biển, làm cho ngư dân bản địa xác xơ vì thu hoạch không đủ trả tiền xăng dầu, nói chi tới kiếm gạo nuôi miệng.
            Từ năm 1950 ố 1954, Trung Cộng đã giúp Việt Minh, người và vũ khí giữ chiến khu Việt Bắc cũng như đánh thắng Pháp tại Ðiện Biên Phủ. Thời gian 1955 ố 1975, Trung Cộng giúp VC gần 85% quân dụng, vũ khí (trừ hỏa tiễn Sam, máy truyền tin, tăng của Nga), để Hà Nội tấn công VNCH. Do trên, VC đã trở thành tên nô lệ của Tàu, từ tư tưởng cách mạng vô sản của Mao Trạch Ðông, cho tới bắt chưóc một cách triệt để, khi thi hành các chính sách đấu tố trong cải cách ruộng đất, xây dựng con người mới xã nghĩa, các chính sách về dân công, nghĩa vụ.. Do trên VC đã dành mọi ưu tiên cho Trung Cộng, kể cả Hoa kiều miền bắc. Thời 9 năm kháng chiến (1946-1954), các vùng do VM tạm chiếm, lệnh tiêu thổ được miễn trừ cho người Hoa tại địa phương. Hàng hóa Trung Cộng nhập cảng vào Bắc Việt (1955-1975), được miễn tô tại các hải cảng. Quan trọng nhất là văn hóa phẩm Hán Tộc, từ sách báo cho tới âm nhạc, bài hát được du nhập vào VN không hạn chế và khỏi kiểm duyệt. Các cán đảng cao cấp trong Bắc Bộ Phủ, kể cả Hồ Chí Minh còn bắt chước cách ăn mặc, quân phục, lon lá, cho tới lá cờ nước hiện nay, cũng đều sao chép nguyên bổn của Trung Cộng. Sau năm 1990, VC đổi mới và bị Trung Cộng áp lực, phải mở banh biên giới phía bắc, để hàng hóa của Tàu từ các tỉnh nằm sâu trong nội địa như Qui Châu, Vân Nam, Quảng Tây.. ào ạt đổ vào thị trường VN từ bắc vào nam, công khai hay buôn lậu. Nói chung VC chỉ có bổn phận tiêu thụ số hàng trên, để trả nợ bằng nguyên liệu trong nước hay ngoại tệ mạnh, chứ không tiền Hồ. Ngược lại, hàng hóa của VN được Trung Cộng mua, lại thanh toán bằng tiền Hồ, do chính Trung Cộng in và phát hành lậu. Cùng lúc Tàu trắng tại các nước Ðài Loan, Hông Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Phi Luật Tân.. hợp đồng cũng Mỹ, Nhật, Ðại Hàn, Nga và Âu Châu, vào VN phân thây xé xác Mẹ VN cho tận tuyệt
            Như thế, bảo sao ngày nay VC không ngọng trước giặc Tàu ?nhắm mắt để cho đồng bào khổ luy chết chóc, mà không dám trả đũa, như vụ ngư phủ Thanh Hóa .
3 Hiêm Họa Trung Cộng Tại Ðông Nam Á :
          Vừa chiếm trọn Hoa Lục, Trung Cộng đã lộ ngay nanh vút của tên đế quốc bá quyền thôn tính các nước lân bang nhược tiểu. Hai nạn nhân đầu tiên là Tây Tạng và Nội Mông bị cưỡng chiếm và sáp nhập vào lãnh thổ Hoa Hạ. Chẳng những thế, Trung Cộng còn tham lam và thâm độc, dùng chính sách di dân và phá thai, khiến cho người Tây Tạng cũng như Mông Cổ, tại quê hương họ, trở thành thiểu số, so với cộng đồng Hoa Kiều từ các nơi di dân tới.
            Việt Nam hiện nay được coi như là bước kế tiếp, đã và đang đón nhận hiểm họa đồng hóa của giặc Tàu. Tháng 1-1974, giặc chiếm quần đảo Hoàng Sa. Tháng 2-1979 chiến tranh tại biên giới Hoa-Việt. Năm 1988, Trung Cộng đơn phương tuyên bố 85% biển Ðông, nằm trong chu vi các nước VN, Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Nam Dương, Phi Luật Tân là của Tàu. Sau đó ngang nhiên đem quân chiếm 15 đảo trong quần đảo Trường Sa, thuộc lãnh thổ của VN từ lâu đời, bất chấp Hoa Kỳ và công pháp quốc tế. Năm 1994, ăn quen trước sự nhu nhựt của VC, nên Trung Cộng lại chiếm đảo Mischief của Phi Luật Tân, làm nổ bùng sự phản kháng và chống đối của các nước trong vùng, kể cả Hoa Kỳ . Ngoại trừ VC, các nước đều gia tăng ngân sách quốc phòng, mua rất nhiều tàu chiến, phi cơ chiến đấu cùng các vũ khí tối tân, của Mỹ, Nga và Tây Phương, để bảo vệ lãnh thổ của quốc gia mình. Sự kiện trên đã phần nào làm chùng bước, mộng xâm lăng của Trung Cộng. Ðó là chưa nói tới Tàu thuyền của Nhật Bổn, Úc Châu, Ðài Loan và Ðại Hàn, cũng như Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ,.coi như không có Trung Cộng hiện diện trong vùng biển Thái Bình, dù Tàu Cộng lúc nào cũng dao to búa lớn và phóng hỏa tiễn vào biển Ðài Loan, trong kỳ bầu cử Tổng Thống nước này vừa qua.
            Trước sự bá quyền của Trung Cộng trên biển Ðông, Hoa Kỳ và Nhật Bản đả tái xác nhận hiệp ước an ninh song phương đã ký kết từ trước. Ðồng thời Mỹ cam kết bảo vệ Phi Luật Tân, nếu nước này bị tấn công. Các nước trong Liên Phòng Ðông Nam Á cũng sực tỉnh, vội cho VC gia nhập vào khối và ai nấy đều hăm hở canh tân quân lực, chuẩn bị chống Tàu cũng như mời Hoa Kỳ trở lại bảo vệ mình.
            Nhưng mục đích của Trung Cộng hiện nay là hất cẳng Hoa Kỳ ra khỏi Thái Bình Dương cũng như Châu Á, để lên làm trùm. Trong các nước quanh vùng, Nhật Bản và Phi Luật Tân đều nằm trong cái dù che chở của quân lực Mỹ. Nam Dương, Thái Lan, Tân Gia Ba và Mã Lai Á hiện có nhiều vũ khí tối tân. Còn Ðài Loan và Ðại Hàn là hai nước mạnh nhất và có thể đã có bom nguyên tử. Rốt cục hiện nay, nước yếu nhất trong vùng vẫn là VC. Ngoài ra từ bao đời, VN luôn là trường thành, cản ngăn bước tiến quân của Trung Cộng, xuống vùng Nam Á. Nên VN,chắc chắn sẽ là nạn nhân đầu tiên lãnh đạn, khi Trung Cộng khai hoả, mở cuộc xâm lăng các nước, như Ðức ốÝ ố Nhật, đã làm trong hai kỳ thế chiến vừa qua.
            Ðọc các văn kiện bằng chữ Hoa, Trung Cộng luôn nhắc tới danh từ “ Shengcun Kongjian”, được hiểu như là “ sinh tồn không gian “, để biện minh cho việc nhận bừa biển Ðông Hải, như cái ao riêng của nước mình. Nhưng nói gì cũng được, ngoại trừ cứ khăng khăng nhận chủ quyền tại các hòn đảo trong biển Nam, là hành động không một ai có thể chấp nhận. Nên không phải ngẫu nhiên, mà giáo sư tai Ðại Học Harward Hoa Kỳ là Samuel Huntington, khi viết tác phẩm “ The Clash of Civilisations and the Remaking of World order “, qua kinh nghiệm lịch sử VN, đã nói về một cuộc thế chiến mới, mà đầu tiên là sự đụng độ giữa Trung Cộng-Việt Cộng, trên biển Ðông Hải. Kế tiếp Trung Cộng xua quân tấn công và cưỡng chiếm VN, làm bàn đạp để thôn tính trọn vùng Ðông Nam Á, qua sự tiếp tay của đạo quân thứ 5 Hoa Kiều bản địa. Tuy hậu quả chưa bi thảm như Tây Tạng và Nội Mông hiện nay, nhưng VN có thể trở thành bình địa, khi Trung Công thua trận chạy về Tàu. Kinh nghiệm 1000 năm nô lệ giặc Bắc, cũng như 10 năm lệ thuộc giặc Minh trong quá khứ và mới nhất là cuộc chiến Hoa-Việt 1979, đã nói lên những thảm trạng nhược tiểu đang chờ.
            Tuy hiện nay Trung Cộng đã đạt được nhiều thành quả về kinh tế, cũng như quân sự, qua chương trình không gian khi tự chế và phóng được phi thuyền Thần Châu (với kỹ thuật của Nga), chế các tàu ngầm nguyên tử mang thủy lôi Exocet ( kỹ thuật Pháp và có một Hàng Không Mẫu Hạm củ mua lại của Liên Xô. Nhưng những thành công trên, thực tế đối với thế giới tiến bộ ngày nay, thì người Tàu chỉ mới bắt đầu thức giấc, sau căn bệnh chậm tiến cả ngàn năm qua. Ðó là chưa nói tới sự bấp bênh của một nền kinh tế vá lấp bằng nguồn vốn cùng kỹ thuật vay mượn của Nhật, Hoa Kỳ cùng Tây Phương. Trong lúc thường trực luôn có cả tỷ ngươì đói rách, luôn chực chờ làm loạn. Giống như đế quốc Liên Xô năm nào, Trung Cộng ngày nay cũng có rất nhiều kẻ thù, đang đợi thời cơ để banh thây xé xác con ngáo ộp. Ðó là các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng. Là người Hồi ở Tân Cương, người Mèo trong vùng Tứ Xuyên, Quí Châu.. Các nước bị cưỡng chiếm này, chỉ mong Trung Cộng bị sụp đổ, là tuyên bố độc lập ngay, như tình trang LX vào năm 1990.
             Trên báo cáo, quân đội Trung Cộng hiện đông nhất thế giới với 2.300.000 quân, gồm 84 sư đoàn bộ bình và 10 sư đoàn thiết giáp, trang bị 8000 chiến xa đủ loại. Về hải quân, Trung Cộng có 93 tàu ngầm, trong số này có một tàu ngầm nguyên tử phóng hỏa tiễn liên lục địa và ba tàu ngầm nguyên tử có khả năng phóng hỏa tiễn tuần hành qui ước. Ngoài ra còn 56 chiến hạm, trong số này có 19 khu trục hạm hạng nặng, 58 tàu thủy bộ cùng một sư đoàn thủy quân lục chiến 6000 người, cộng thêm ba tàu tiếp tế viễn dương và tám chiếc tiếp tế dành cho tiềm thủy định. Về không quân, có 894 phi cơ chiến đấu cùng 55 trực thăng võ trang. Tất cả đều đặt căn cứ trên đất liền.
            Tuy nhiên, theo các chuyên gia quân sự, thì không phải bây giờ mà một thập niên sau, quyền lực trên biển vẫn là Hoa Kỳ. Từ năm 1945 về sau, Mỹ đã tham dự 9 cuộc hải chiến, biểu dương sức mạnh vô địch của hải lực, luôn làm chủ tình thế khi đụng trận trên biển với Hải quân Ðức-Ý và Nhật, trong thế chiến 2, được đánh giá là ngang ngửa với hải lực của Hoa Kỳ. Do nhu cầu sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt nhưng thế giới lại bước vào một cuộc chiến mới, giữa ý thức hệ Duy Lý Tây Phương và Phe Hồi Giáo cực đoan, nên cơ cấu tổ chức Hải Lực Hoa Kỳ có phần thay đổi, cũng như các hàng không mẫu hạm, đều được thay thế mới, chạy bằng nguyên tử lực. Bởi vậy, từ cuối thập niên của thế kỷ XX, đứng đầu quân chủng Hải Quân, là Tham Mưu Trưởng Liên Quân cũng là Cố Vấn về hải quân, cho Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc. Hiện Hải lực Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới về sức mạnh, với ba Hạm Ðội Ðại Dương : 1-Hạm Ðội Ðại Tây Dương hay là Ðệ Nhị Hạm Ðội, bản doanh đóng tại Norfold, Virginia. Hạm đội này có nhiệm vụ bảo vệ khối Nato và các nước Trung Mỹ. 2-Hạm Ðội Âu Châu hay là Ðệ Lục Hạm Ðội, trách nhiệm bảo vệ các nước Nam Âu trong vùng biển Ðịa Trung Hải. 3- Hạm Ðội Thái Bình Dương, gồm Ðệ Tam và Ðệ Thất Hạm Ðội. Ðệ Tam Hạm Ðội hoạt động trong vùng phía đông Thái Bình Dương. Ðệ Thất Hạm Ðội, trách nhiệm phía tây, từ bán đảo Kamchatka ở biển Bering, tới biển Nam Hải, bao gồm Ấn Ðộ Dương và vịnh Ba Tư. Từ năm 1979, tại đây luôn có một Hàng Không Mẫu Hạm và một lực lương đặc nhiệm thường trực hiện diên, trong vịnh Bengan , hợp tác cùng Hải uân Ấn Ðộ, canh chừng Trung Cộng, mượn đường Miến Ðiện, xuống Ấn Ðộ Dương, Tóm lại , hiện nay có bốn Hạm Ðội mạnh nhất trên thế giới là Mỹ, Nga, Anh và Pháp, nếu tính bằng con số tàu thuyền, máy bay, năng lực và vũ lực. Tất cả các Hạm Ðội trên, đều được trang bị bằng vũ khí nguyên tử, nhiều Hàng Không Mẫu Hạm, Tiềm Thủy Dĩnh Nguyên Tử mang theo Hỏa Tiễn Liên Lục Ðịa. Riêng Hoa Kỳ là một quốc gia Thái Bình Dương, nên luôn ý thức rằng, muốn có hòa bình trong vùng, trên hết là phải duy trì một lực lượng hùng mạnh. Bởi vậy, chỉ có tại biễn Thái Bình, Hoa Kỳ đã phối trí tới Hai Hạm Ðội, như vậy chừng nào mới tới phiên, hải quân Trung Cộng làm bá chủ ở đây ? trừ phi cả hai đồng thuận chia vùng, một điều chắc chắc là sẽ không bao giờ xảy ra. Trung Cộng sẽ chẳng bao giờ trở thành người khổng lồ trên biển, khi mà sự hiện diện của Hải Quân Hoa Kỳ vẫn còn. Hiện hai nước đang chơi trò cút bắt và Mỹ đã tái diễn cuộc chơi, chạy đua vũ trang như thời chiến tranh lạnh, giữa LX và Hoa Kỳ. Rốt cục người Nga đã quị vì cạn tiền, trước chàng nhà giàu vô địch thế giới. Trung Cộng cũng đã đi vào vết xe đổ của đàn anh, khi vung tiền qua cửa sổ trong mọi lĩnh vực, quyết tâm chiến thắng người Mỹ. Hai thập niên qua, sau khi kiếm được nhiều tiền bằng kinh tế, Trung Cộng dành phần lớn công khố quốc gia để canh tân quân lực, nhất là về hàng hải. Mặt khác Trung Cộng bỏ tiền chạy đua với Tây Phương, để kiếm dầu tại Trung Á, Trung Ðông, Châu Phi. Trong vùng biển Ðông Hải, Trung Cộng công khai cưởng áp VC chiếm lần hồi đất đai, biển đảo. Ðể chuẩn bị cho một thế chiến với Hoa Kỳ, Nhật, Úc, Ðài Loan tại Thái Bình Dương, Trung Cộng bỏ nhiều tiền mua cổ phần trong chính phủ Panama, để xen vào nội bộ điều hành con kênh chiến lược, được coi là yết hầu của Mỹ. Khắp nơi từ Nepal, Bangladesh, Miến Ðiện, Mã Lai, Lào, Kampuchia.. nước nào, Trung Cộng cũng dùng tiền và đạo quân thứ 5 là Hoa Kiều, để kiếm căn cứ, cũng như chuẩn bị con đường chiến lựoc tiếp tế khi có chiến tranh. Tuy nhiến tất cả đều là cái bẩy của người Mỹ giăng ra, để khuyến khích Trung Cộng vào cuộc chơi. Vì chưa thấy Tàu đỏ đánh đấm với một siêu cường nào sau cuộc chiến Cao Ly năm 1950, ngoài sự ỷ lớn lấy thịt đè người VN. Tuy nhiên lần nào, từ Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974 cho tới chiến tranh biên giới Hoa-Việt 1979, Trung Cộng tuy ngoài miệng khua lớn chiến thắng, mà mặt thật là lãnh đủ, lãnh đậm từ vật chất cho tới nhân mạng, cả thế giới đều biết. Từ năm 2001 tới nay, Hoa Kỳ vì bận tay diệt trừ các nước Hồi Giáo cực đoan như A Phú Hãn, Iraq, nên phải mắt nhắm mắt mở để Trung Cộng và Bắc Hàn múa may quay cuồng tại Ðông Nam Á. Hiện Nga đang chới với trong vũng bùn kinh tế và cái xương hóc Chechen-Ingush, nên còn sức đâu mà tranh bá đồ vương. Tại Iraq cuối tháng 1-2005 sẽ diễn ra cuộc bầu cử, để cho Hoa Kỳ rút quân trong danh dự. Vùng Trung Ðông, đang có triển vọng hòa bình giữa Do Thái-Palestine. Nếu mọi sự không trở ngại, Irael hiện là cường quốc nguyên tử thứ ba trên thế giới (sau Hoa Kỳ và Nga), sẽ thay thế Hoa Kỳ thanh toán SyriaIran . Người Mỹ rảnh tay rút về Ðông Nam Á để tính sổ với Trung Cộng và Bắc Hàn trên Thái Bình Dương, một sự kiện không làm sao tránh được, giữa hai con hổ đang tranh mồi, để sinh tồn. Kế hoạch vĩ đại của Hoa Kỳ về an ninh phát triển, phần nào đã được Tổng Thống G.W.Bush bật mí, qua bài diễn văn nhậm chức TT nhiệm kỳ 2 vào ngày 20-1-2005, mà ai cũng nghe biết. Riêng Nhật Bản từ sau Thế Chiến 2 trở thành một siêu cường kinh tế, chỉ thua Hoa Kỳ. Quan niệm của Nhật cũng thay đổi, là quyền lợi thương mại chứ không phải lãnh thổ và thị trường chính, vẫn là các nước vùng Ðông Nam Á ố Thái Bình Dương. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ và Nhật, tái xác nhận hiệp ước song phương về An ninh. Vì vậy khi Thái Bình Dương nổi sóng, chắc chắn Nhật Bổn sẽ là quốc gia đối đầu trực tiếp với Trung Cộng, bên cạnh Hoa Kỳ, để giữ yên con đường vận chuyển dầu khí huyết mạch, từ Trung Ðông, Trung Á về nước, ngang qua Thái Bình Dương, mà Tàu nói là lãnh hải của nước mình. Chẳng những thế, Trung Cộng hiện nay qua Hoa Kiều hải ngoại tiếp tay, đã lấn lướt và công khai cạnh tranh với hàng hóa Nhật bẵng sản phẩm dỏm bán giá hạ, mà sắp tới là Xe hơi. Nên Nhật đâu có ngu để chết ? bằng chứng là vụ phát hiện dễ dàng chiếc tiềm thủy đĩnh của Trung Cộng, trong hải phận Nhật Bổn. Ðiều này cho thấy các nước lớn nhỏ trong vùng, ai cũng đợi thời tiêu diệt tên bá quyền đỏ đang mang hiểm họa chiến tranh tới cho nhân loại, nhất là các nước yếu tại Ðông Nam Châu Á, trong đó có VN
4 Than Ôi, Thời Oanh Của VN, Nay Còn Ðâu ?
            Việt Cộng hiện có 700.000 quân chính quy, gồm 62 sư đoàn bộ binh và 3 sư đoàn cơ giới với 1300 chiến xa đủ loại. Vì VC lúc nào cũng che dấu sự thật, nhất là trong lãnh vực được coi là bí mật quốc phòng, nên việc tìm hiểu về sức mạnh của đất nước ta rất khó khăn. Nhưng đại khái Hải Quân của VC hiện có 7 Khu Truc Hạm hạng nhẹ và 62 Chiến Hạm cùng Chiến Ðỉnh Tuần Duyên các loại nhưng đa số đều cũ kỹ lỗi thời. Ngoài ra VC còn sử dụng các chiến hạm của VNCH bỏ lại sau tháng 5-1975, như khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ4) ố loại Der, hộ tống hạm Kỳ Hòa (HQ9) ốloại Msf, tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão (HQ15) ố loại Whec, hải vận hạm Tiền Giang (HQ405)- loại Lsm, hải vận hạm Hậu Giang (HQ406)- loại Lsm, dương vận hạm Ðà Nẳng (HQ501)-loại Lst, dương vận hạm Vũng Tàu (HQ503) ốloại Lst và dương vận hạm Qui Nhơn (HQ504) ốloại Lst. Ðảng VC hiện nay rất giàu nhưng đâu có chịu bỏ tiền ra để canh tân Không Quân và Hải Lực như các nước khác trong vùng, vì ta và Tàu sông liền sông, núi liền núi, nên non sông gấm vóc của tổ tiên Hồng Lạc, có do người Hán cai trị, cũng thế thôi, chẳng có gì phải thắt mắc, khiến sứt mẻ tình hữu nghị thắm thiết răng môi, mà ‘ bác hồ-bác mao’ đã vun xới tạo thành.
            Ta biết sức mạnh quân sự của một quốc gia, ngoài vũ lực còn có yếu tố tinh thần yêu nước. Bởi vậy qua dòng lịch sử, trong sự nghiệp chống ngoại xâm, tuy rằng quân đội nước ta được kết hợp bởi nhiều thành phần đa dạng nhưng với tình yêu nước nồng nàn của toàn dân, đã trở thành một lực lượng hùng hậu, đã làm vẻ vang cho dân tộc. Từ ngày mở cửa đổi mới, trước hiểm họa xăm lăng của giặc Tàu mà bất cứ ai cũng thấy rỏ, VC chỉ mới tham gia các khối ASEAN, ARF và nối lại bang giao với Mỹ, chấm hết. Dĩ nhiên nếu Trung Cộng xâm lăng VN, tất nhiên chúng ta phải chống trả, vì đây là truyền thống ngàn đời của Dân Tộc Việt, cho dù bất cứ thời nào. Nhưng cuộc chiến hiện nay, không phải như năm 1979 kể cả hai phương diện chiến tranh và tâm lý. Năm 1979, quân đội Trung Cộng tuy đông nhưng lạc hậu, nếu so với VC ít mà lại có nhiều vũ khí tối tân, cũng như kinh nghiệm chiến đấu. Năm 1979, bức màn sắt xã nghĩa còn đóng kín nước Việt, các chóp bu trong Bắc Bộ Phủ có ăn thai nhi hay gan người cũng đâu có ai biết. Hơn nửa có ai dám đào ngủ, trốn nghĩa vụ bộ đội, dân cộng khi cả nước đang sống dưới chế độ công an khu vực, hộ khẩu và tem phiếu hợp tác xã quốc doanh.
            Ngày nay thực chất đã khác. Có thể nói rằng, chỉ có người Việt hải ngoại, đa số no cơm ấm cật, nên hay muốn làm công chuyện “ đổ vỏ ốc cho VC” , Tuy nhiên đây cũng chỉ là đánh giặc miệng, thói quen của những đỉnh cao hư óc. Thử hỏi cả nước, đâu cũng thấy bộ đội VC bây giờ, hằng ngày mặc quân phục nhưng chỉ làm kinh tế, tại cac công trường hơn là nơi biên cương hải đảo, để giúp đảng, cấp chỉ huy kinh doanh làm giàu. Nói chung, bộ đội VC ngày nay đều là lính trẻ, còn lớp lính già thời xưa, lớp chết, lớp phục viên và nếu còn trong cảnh đói nghèo hiện tại, liệu họ chịu hy sinh khi nước non hữu sự. Trong khi đó bộ máy quân sự, từ 1800 chiến xa, 223 phi cơ chiến đấu và 55 chiến hạm, có tuổi đời chỉ thua tuổi của ‘ bác ‘ một chút, thì làm sao mà chọi với giặc Tàu, hiện Mỹ-Nhật còn phải e dè.
            Năm 1979, Trung Cộng xâm lăng VN nhưng phải rút lui vì tổn thất nặng nề, bởi lúc đó người Việt chưa nhìn thấy rõ mặt thật của đảng, nên hăm hở ra biên giới đỡ đạn. Năm 2005, người Việt từ trong tới ngoài nước, đều chạy làng đảng vì tham nhũng, hèn hư và nhất là sự bất lực trước kẻ thù, qua biến cố ngày 12-1-2005, Trung Cộng giết cướp đồng bào ngư phủ Thanh Hoá, khi đang hành nghề trong vịnh Bắc Việt.
            “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
             người trong một nước, phải thương nhau cùng “
nhưng biết làm sao hơn với thân phận của người nghèo sống trong một quốc gia nhược tiểu. Bài học của lịch sử luôn hiện ra trước mắt người Việt, đó là lúc thế nước suy hèn vì chia rẽ và loạn lạc, là mỗi lần giặc Tàu xâm lấn bờ cõi. VC ngày nay tuy còn ngôi trên ngai vàng, nhưng đã mất hết thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Cho nên nếu Trung Cộng xâm lăng VN, đảng làm sao lãnh đạo cả nước chống giặc. Hơn nửa từ bao lâu nay, đảng luôn xem quyền bính và phe nhóm, quan trong hơn đất nước và đồng bào, vì vậy chỉ phản ứng lấy lệ, thì cũng đâu có gì là lạ.
            Bổng thấy thương vô cùng những người lính VNCH, tuy bị đời chửi rủa là đánh giặc mướn cho Mỹ, nhưng suốt thời gian 1955-1975, ngư phủ VN từ Cửa Việt vào tới Hà Tiên, ngày ngày giăng câu thả lưới, bạn với gíó mát trăng thanh, mà không sợ một kẻ thù nào kể cả VC. Than ôi thời oanh liệt nay còn đâu ?
Xóm Cồn
1-25-05
Mường Giang













Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire